LTCGVN (11.08.2014)
Nhắc đến nghệ sĩ nhân dân, đạo diễn Trần Văn Thủy là người ta
nhớ ngay đến hàng loạt tác phẩm để đời của ông như "Những người dân quê
tôi", "Phản bội", "Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai", "Chuyện
từ góc công viên", "Thầy mù xem voi"… và đặc biệt là hai tác
phẩm đã “làm mưa làm gió” trong đời sống điện ảnh của người dân Việt Nam cũng như
cho chính cuộc đời ông một thời: "Hà Nội trong mắt ai", "Chuyện
tử tế". Vì "Hà Nội trong mắt ai" mà ông gặp nhiều chuyện rắc
rối, nhưng cuộc đời cũng lắm sự lạ lùng… sau năm năm bất lực, tuyệt vọng vì đứa
con tinh thần của mình không được phép lên tiếng, thì ngay khi xuất hiện trở
lại nó đã đưa ông lên đài vinh quang.
Chưa bao giờ phim tài
liệu lại được chiếu riêng một buổi như các phim truyện khác. Chưa bao giờ người
ta lại bỏ tiền túi ra, xếp hàng lũ lượt để mua vé vào xem. Cũng chưa bao giờ
các rạp chiếu phim lớn của cả nước lại làm việc hết công suất như thời điểm
công chiếu hai phim nói trên. Không biết đến bao giờ điện ảnh Việt Nam
mới lặp lại hiện tượng ấy. "Hà Nội trong mắt ai" nhận
liền bốn giải lớn của Liên Hoan Phim Việt Nam năm 1988 ( giải Bông Sen Vàng đặc
biệt, giải Biên kịch, giải Đạo diễn, giải Quay phim xuất sắc nhất ).
Nhìn lại cả quá trình
cống hiến của ông cho ngành điện ảnh, người xem dễ dàng nhận thấy ông luôn lấy
con người làm trung tâm của mọi nghĩ suy, dằn vặt, nỗi đau và cả niềm hy vọng
mà ông muốn đặt vào tác phẩm của mình. "Khi chưa có độc lập thì thân phận,
cảnh đời của người dân lam lũ, khốn cùng luôn xuất hiện trong các tác phẩm văn
học nghệ thuật. Nhưng khi có độc lập rồi thì không thấy bóng dáng họ đâu"
là nỗi trăn trở của ông gửi vào "Chuyện tử tế".
Nguyên tắc tối thượng
trong công việc của ông là phải làm ra được những tác phẩm thực sự có ích cho
con người. Không phải đơn giản mà tại Hội Thảo Điện ảnh Tài Liệu Quốc Tế The
Robert Flaherty ở New York
( tháng 5 năm 2003 ), với hơn 200 nhà làm phim độc lập, đạo diễn Trần Văn Thủy
và đạo diễn Toshimoto của Nhật Bản đã được vinh danh "Chứng nhân của thế
giới". Năm 2010, Nhật Bản cũng đưa tên đạo diễn Trần Văn Thủy vào "Từ
điển danh nhân" của họ.
Câu
chuyện ông chia sẻ với chúng tôi trong một buổi chiều ở Hà Nội cũng lan man,
chất chứa biết bao tâm sự về con người. Ông nói: Bạn bè tôi, ngồi với nhau nói
chuyện gì thì nói: Kinh tế, gia đình, sức khỏe, thậm chí cả những chuyện bậy bạ
của đám đàn ông... nhưng rồi cuối cùng vẫn quay lại chuyện... chính trị. Mà
điều này không chỉ với người Việt ở trong nước mà người Việt ở nước ngoài cũng
thế.
Nói chữ "chính
trị" thì hơi xơ cứng và dễ bị hiểu lầm, mà phải nói đó là khát vọng, tấm
lòng và lòng yêu nước của người Việt. Cái đó lớn lắm. Tôi vẫn nói với các đồng
nghiệp trẻ rằng đừng hiểu chữ "tài liệu" một cách xơ cứng. Phim phải
truyền tải được một thông điệp gì đó về lẽ sống, về cách ứng xử, về bổn phận...
Một bộ phim, một vở diễn, một cuốn sách không có tư tưởng theo hướng đó thì
không thể nào là một tác phẩm được. Đã gọi là tác phẩm thì phải chuyển tải được
điều gì đó vào nhận thức của mỗi người và ta tạm gọi đó là tư tưởng.
Theo thiển ý của tôi,
điều cực kỳ quan trọng của mọi loại hình văn học nghệ thuật hay khoa học xã hội
là phải lấy mục tiêu con người, xoay quanh con người. Ở trên đời này không có
một nghề nghiệp nào, một chức vụ gì, một công việc gì gọi là tử tế nếu như
không bắt đầu từ những ý nghĩa liên quan đến con người, đi từ nỗi đau của con
người.
Tâm huyết với cuộc đời là vậy, nhưng
có lần ông đã thừa nhận mình là người tiêu cực ? Có phải những chuyện đó được
ông viết trong "Nếu đi hết biển", cuốn sách từng khiến ông gặp những
điều khá phiền phức bởi bị một số người Việt ở Mỹ công kích ?
Chỗ này phải
nói dông dài một chút. Giữa năm 2002, William Joiner Center ( WJC ) thuộc
Trường Đại Học Massachusetts
ngỏ ý mời tôi sang Mỹ để tham gia chương trình "Nghiên cứu về cộng đồng
người Việt" do quỹ Rockefeller tài trợ. Tôi cảm ơn và từ chối vì đơn giản
là tôi không biết "nghiên cứu" và tôi không thích "nghiên
cứu". Làm một cái việc rất mất thì giờ, mất nhiều công sức, kết quả là một
xấp giấy được bỏ vào ngăn kéo, may ra một năm được vài ba người đọc, theo tôi,
đó là chuyện vu vơ.
Nhưng tháng 8 năm đó, WJC nhắc lại lời mời. Thấy họ
chân tình tha thiết quá, tôi nhận qua Mỹ. Nhưng, tựa như một ma lực, một định
mệnh, tôi gặp nhiều hoàn cảnh, nhiều câu chuyện trong bà con người Việt mà tôi
có thể tiếp xúc. Vui thì tôi chóng quên, buồn thì tôi bị ám ảnh, ám ảnh nhiều
lắm, nhất là chuyện vượt biên, vượt biển, cải tạo, tù tội... Từ đó tôi không đi
chơi nữa, tôi quyết định toàn tâm toàn ý vào một công việc rất mơ hồ và không
rõ cái đích ở đâu, chỉ đinh ninh là nó sẽ có ích. Tôi đặt bút viết những trang
đầu, rồi cố gắng "rặn" ra được quãng bốn năm mươi trang, suôn sẻ.
Tôi có thói quen luôn nghĩ đến người
đọc, người đọc trong nước và đặc biệt là người đọc ở Mỹ. Tôi bị khựng lại hoàn
toàn. Hoàn cảnh xui khiến, nghề nghiệp mách bảo, tôi "đè" mấy ông bạn
văn chương, trí thức ra trao đổi, trò chuyện cởi mở về chính cuộc sống và suy
nghĩ của người Việt ở đây. Chỉ việc ghi chép trung thực và cam đoan với nhau là
nếu công bố thì phải "y như bản chính". Thật là thượng sách. ( Ảnh
bên: Nghệ sĩ khiếm thị Văn Vượng và bản độc tấu Guitar "Hà Nội trong mắt
ai" ).
Như thế, dù không muốn ông vẫn có
"công trình nghiên cứu" cho WJC, hơn nữa nó không bị xếp vào ngăn
kéo, trái lại, nó được in thành sách và còn được tái bản, một chuyện khá hiếm
đối với một cuốn sách tiếng Việt ở Mỹ ?
Mất khá nhiều công sức để bàn thảo
với các anh chị ấy ( những người tác giả gặp gỡ, chuyện trò – PV ), cuối cùng
thì bản thảo được chỉnh lý, chốt lại còn trên 200 trang đánh máy, tôi định nộp
cho WJC hai tuần trước khi về nước. Bỗng dưng "trời xui đất khiến"
thế nào, nhà văn Nguyên Ngọc đến Boston ,
ở cùng nhà, đi dạo, chuyện trò, thăm hỏi linh tinh: "Thủy, cậu sang đây
làm gì ?"... "Thế à, viết xong chưa ?"... "Đưa tớ đọc chơi
được không ?"
Đọc liền ba đêm, sáng hôm sau trở
dậy, chưa kịp ngồi vào bàn ăn ông đặt tay lên tập bản thảo và nhìn vào mắt tôi:
"Thủy ! Cái này rất cần và có ích". Tôi không tin ở tai mình, hỏi lại
và nóng ran cả người khi nghe ông nhắc lại: "Cái này rất cần và có
ích". "Bố" này đã nói là tôi tin, tôi rành rọt nói với ông:
"Nếu anh bảo cái này nó cần và có ích thì chắc chắn tôi in ngay và tôi
cũng sẽ về nước ngay". "Nếu đi hết biển" ra đời lòng vòng là
vậy. Chẳng có âm mưu gì đáng ngại, chẳng có tài cán gì đáng nể...
Nếu nhà văn Nguyên Ngọc đã nói thế
và ông tin nhà văn thì tại sao "Nếu đi hết biển" đến giờ vẫn chưa
được phổ biến ở Việt Nam, thưa ông ?
Tôi nghĩ có lẽ cũng giống như "Hà
Nội trong mắt ai" ở đầu những năm 1980. Ngày ấy, người thích thú, tán
thành thì khá đông nhưng không có quyền, không có diễn đàn; người phản đối, lên
án thì rất ít, nhưng có quyền, có diễn đàn, thậm chí có cả một guồng máy. Cũng
có nhà xuất bản có nhã ý muốn in, tôi cảm ơn và có điều kiện: Phải in nguyên xi
100%, đúng từng dấu chấm, dấu phẩy. Chẳng phải tôi kiêu ngạo gì về những con
chữ của mình, chỉ là tôi muốn tôn trọng tuyệt đối những người đã giúp tôi làm
cuốn sách này.
Với những gì đã
và đang làm, ông có cho mình là người có tấm lòng yêu nước hơn người ?
Yêu nước không phải là đặc quyền
của bất cứ ai. Đặc biệt không được ban phát cho người này yêu nước và người kia
không được yêu nước. Khi tôi cùng gia tộc cụ Nguyễn Văn Vĩnh làm bộ phim "Mạn đàm về người Man di
hiện đại" ( bốn tập với 240 phút ), ở cuối phim tôi nói
rằng: Khi bộ phim đi vào giai đoạn cuối, vào một đêm mưa gió bão bùng, cụ Vĩnh
đã về báo mộng cho người đạo diễn phim này: "Xin đa tạ những tấm lòng của hậu thế đã nói về tôi với những lời ấm áp,
xin đa tạ ! Nhưng chớ vì tôi mà làm mất thì giờ. Đất nước ta có không biết cơ
man những người có tấm lòng ái quốc, hãy vì hậu thế mà đối xử tử tế với họ, cho
dù họ có ái quốc theo cái cách của họ..." ( Ảnh bên: Chân dung
học giả Nguyễn Văn Vĩnh ).
Trong một buổi tọa đàm trên truyền
hình, ông đã từng nói: "Nội lực không phải là mấy đồng xu lẻ ở trong túi
dân chúng. Nội lực là trí tuệ, công sức, tình cảm, tâm huyết của toàn thể dân
tộc, không kể trong hay ngoài nước, cũ hay mới". Vậy, theo ông, cách nào
để phát huy nội lực của đất nước ?
Đối với tôi, trong mọi mối quan hệ,
bao giờ cũng chỉ coi trọng yếu tố con người. Ở trong "Chuyện
tử tế" có
đoạn nói về trẻ em Việt Nam
và trẻ em Nhật Bản. Trong khi trẻ em Việt Nam được học: "Các em là những đứa trẻ hạnh phúc bởi các em là con Hồng cháu
Lạc, giang sơn của các em như gấm vóc, tài nguyên giàu có với rừng vàng, biển bạc..."
Nhưng trẻ em Nhật Bản được dạy bảo: "Các
em là những đứa trẻ bất hạnh bởi vì được sinh ra trên đất nước hoàn toàn không
có tài nguyên, từng thua trận trong chiến tranh. Gương mặt của đất nước này và
tương lai của đất nước này trông chờ ở các em". Thế cho nên
thái độ của trẻ em Nhật Bản đối với đất nước của chúng khác hẳn con em chúng
ta, có trách nhiệm hơn, bao dung hơn.
Một ví dụ khác nữa là vua Trần Nhân
Tông. Trong khi đánh thắng quân Nguyên Mông, các quan cận thần dâng lên cái
tráp trong đó có danh sách của những kẻ nội phản, làm tay sai cho giặc. Nhà vua
ưu tư và phán rằng: "Các ngươi, hãy vì tấm lòng của muôn dân, sự hiếu thảo
của muôn dân, sự đoàn kết của muôn dân để xây dựng đất nước này, giang sơn này
và mang đến cho bá tánh đời sống yên vui, ai ai cũng có thể nhìn nhau bằng tấm
lòng tin cậy. Ta truyền lệnh đốt cái tráp này đi". Nếu nói nội lực của đất
nước không phải là mấy đồng xu lẻ gửi ở ngân hàng thì có nghĩa nội lực là tất
cả những vấn đề về nhân cách của một dân tộc, bản lĩnh của một dân tộc. Suy cho
đến cùng vấn đề của xã hội Việt Nam
bây giờ chính là vấn đề nhân cách. Tất nhiên suy nghĩ của tôi có thể là phiến
diện, là chưa chuẩn.
Nói cách khác là nội lực đất nước
liên quan đến vấn đề giáo dục, thưa ông ?
Liên quan đến rất rất nhiều. Phải
chăng nền giáo dục của ta hiện nay sản sinh ra những con người không dám nói sự
thật, không có chính kiến, hắt nước theo mưa, nước chảy bèo trôi... Người ta
không dám nói điều khác với ý kiến của cấp trên. Nếu như toàn dân được nói
những điều mình nghĩ, mình cho là phải thì chúng ta càng có nhiều lựa chọn. Tôi
chỉ có ước mơ duy nhất là đất nước mình trở thành một đất nước mà trong đó gồm
những con người nghĩ gì nói nấy. Tất nhiên, ở những cương vị khác nhau thì
những điều nghĩ và nói ấy nó sẽ có những giá trị nhất định. Nhưng tuyệt đối,
đừng coi thường dân chúng.
Thế có nghĩa, cách tốt nhất để phát
huy nội lực chỉ đơn giản là làm thế nào để mọi người được nói những điều mình
nghĩ ?
Đúng vậy, làm sao mà một người hay
một nhóm người nào đấy lại có thể khôn hơn, giỏi giang hơn, sáng suốt hơn gần
90 triệu dân ? Việc biết lắng nghe người khác nói sẽ chỉ làm cho xã hội tốt lên
chứ không thể xấu hơn được.
Theo ông, như thế nào là một người
tử tế ?
Đây là một câu hỏi cũ như trái đất.
Sống lương thiện. Biết đau những nỗi đau của đồng loại, biết nhục những nỗi
nhục của đồng bào. Karl Marx tôn kính đã từng nói: "Tất nhiên, chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại
với nỗi đau khổ của con người, mà chăm lo riêng cho bộ da của mình".
Mở đầu phim "Chuyện tử tế",
năm 1985 tôi viết thế này: "Ngày xưa
cha bác có dạy rằng, tử tế có trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ,
mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó trên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ
đài quốc gia, bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nỗ lực tột bậc và chí hướng cao
xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn
đầu tiên vào việc học làm người, người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt
họ thành những người có quyền hành giỏi giang hoặc siêu phàm".
Sau gần 30 năm, "Chuyện tử tế"
vẫn còn nguyên giá trị. Nếu bây giờ có cơ hội, ông có làm tiếp không ?
Chẳng bao giờ làm lại được đâu. (
Ảnh bên: một cảnh thật trong phim "Chuyện tử tế" )
Vì...
Ngày đó, và cả
bây giờ xem lại "Chuyện tử tế" và "Hà Nội
trong mắt ai" ai
cũng sẽ tự hỏi: Chỉ có như vậy thôi mà sao lại bị cấm đoán và ồn ĩ lên thế ? Có
lẽ phim gây chấn động và sự quan tâm chính bởi những điều nó đặt ra vào cái
thời điểm ấy. Kể ra, đến nay nó vẫn hợp thời về mặt nội dung. Nhưng nó không
phải là kiệt tác hay đỉnh cao gì. Về mặt nghề nghiệp mà nói, phim rất thường
bởi vì phần lớn là quay toàn cảnh, dùng lời bình dẫn dắt. Cách làm phim hiện
đại bây giờ người ta không tiêu hóa nổi đâu. Và nói thật rằng khi chiếu lại
những bộ phim này tôi thấy xấu hổ về mặt nghề nghiệp.
Thực ra, phim tài liệu khó có thể
nói là của anh, của tôi hay là của một người nào cụ thể. Đó là phim của cuộc
đời. Tất cả những người trong phim, nhờ có sự hiện diện của họ, nhờ sự đóng góp
tham gia của họ, nhờ sự từng trải, nhờ những thân phận của họ mà làm nên câu
chuyện. Họ không phải là diễn viên. Không phải hư cấu, không phải đạo diễn gì
cả. Cái xứ này có quá nhiều chuyện hay, không phải đóng diễn, bịa đặt.
Tôi vẫn thường nói với các học trò
của tôi rằng, cái dở nhất của người làm phim tài liệu chúng ta là cuộc đời vốn
thật thì ta làm thành giả. Bình thường cuộc đời rất hồn nhiên, ta mang phương
tiện, máy móc... đến, hô bật đèn lên, bấm máy đi... thế là tất cả mọi thứ
"chết cứng" hết cả lại, nó không thật nữa. Đối với tôi cuộc đời là
bàn thờ. Và như vậy, liệu tôi có làm được một "Chuyện tử tế"
nữa không ?
Được biết, ông vẫn tiếp tục làm
phim, vậy tiếp sau "Mạn đàm về
người Man di hiện đại" sẽ là gì, thưa ông ?
Hội ái mộ Yersin ở tỉnh Khánh Hòa và
Thụy Sĩ có gợi ý mời tôi làm phim về nhân vật này. Alexandre Yersin là người vô
cùng có công với Việt Nam .
Ông là người đi vào lịch sử y học thế giới bằng việc tìm ra vi trùng dịch hạch,
ông là người tìm ra Đà Lạt, mang cây hồ tiêu và cây cao su vào trồng ở Việt Nam .
Một con người vô cùng gắn bó, yêu thương với những người dân chài nghèo khó ở
xóm Cồn, Nha Trang. Người gần như sống hết đời và làm khoa học ở Việt Nam .
Trong di chúc, ông muốn rằng: Xin
hãy đừng mang tôi đi đâu cả, hãy để tôi ở Suối Dầu, bên cạnh những cây cao su
và cây hồ tiêu và những người Thượng... Một người tử tế như thế, đáng kính như
thế, nhân hậu như thế, vì con người như thế tôi mong muốn làm một cái gì đó
thật xứng đáng để hậu thế chúng ta không bao giờ quên ông.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện !
KIM ANH, 11.8.2011, Doanh nhân Sàigòn cuối tuần
0 nhận xét:
Đăng nhận xét