Điều này ảnh hưởng Thánh Teresa khá
nhiều: “Khoa học Tình yêu, vâng, từ ngữ
này âm vang ngọt ngào trong linh hồn tôi, và tôi chỉ muốn loại khoa học này”. Ơn
gọi yêu thương của Chị được kết tinh.
Khoa học và tình yêu có vẻ không hợp
nhau. Chúng ta muốn kết hợp tình yêu bằng cảm xúc, sự thu hút, và niềm đam mê –
không hẳn là “chất” khoa học, nó hợp với lý lẽ, kinh nghiệm và sự phát triển. Nhưng
tình yêu giống như khoa học không là phép ẩn dụ thần bí vô căn cứ hoặc lập dị.
Tôi tình cờ gặp được đoạn văn của
Thánh Teresa ngay sau khi đọc cuốn “Anh Em Nhà Karamazov” (Brothers Karamazov),
và Dostoevsky – viết vào khoảng thời gian như Thánh Teresa (cuối thập niên
1800) – cũng sử dụng công thức này. Trong phần đối thoại đầu cuốn sách, Lm
Zossima cố gắng an ủi “người phụ nữ của niềm tin bé nhỏ”, đầu tiên là khuyên
phụ nữ này đừng sợ vì tính nhút nhát khi đạt được tình yêu, rồi chỉ ra rằng tình
yêu trong hành động khó so sánh với tình yêu trong mơ ước: “Tình yêu tích cực là làm việc và chịu đựng, đối với một số người, có
thể đó cũng là một khoa học hoàn hảo”.
Dorothy Day, người sáng lập Phong
trào Công nhân Công giáo, cũng viết: “Tình
yêu là một dạng khoa học, một dạng kiến thức mà chúng ta thiếu”. Đây là lý
do chúng ta luôn cần cầu xin Chúa Thánh Thần: “Accende lumen sensibus, infunde
amorem cordibus” – xin hãy thắp sáng các giác quan, xin hãy đổ đầy tình yêu vào
trong tâm hồn chúng con. Lời nguyện ca thật đẹp đó trong bài thánh ca cổ “Veni
Creator Spiritus” (Lạy Chúa Thánh Thần, Xin Ngự Đến). Chính Chúa Thánh Thần làm
cho tâm hồn chúng ta đầy tràn tình yêu.
Không lâu trước thời Thánh Teresa, khái
niệm của chủ nghĩa thực chứng (positivism) cho rằng không có khoa học hiện hữu trừ
những gì nghiên cứu hiện tượng của thế giới tự nhiên, đã bắt đầu được chú ý. Trong
cuốn sách viết năm 1874, cuốn “The Crisis of Western Philosophy: Against the
Positivists” (Khủng hoảng của Triết học Tây phương: ), triết gia lỗi lạc Vladimir
Soloviev (người Nga) đã bác bỏ khái niệm của triết gia Auguste Comte (người
Pháp) cho rằng nhân loại bước vào một kỷ nguyên nhận thức khoa học là cách phù
hợp để thay thế mọi dạng hiểu biết khác, chẳng hạn như kiến thức thần học hoặc
triết học “thô sơ”. Comte cảm thấy những điều đó đã lỗi thời đối với lịch sử của
sự tiến bộ “khoa học”. Phương châm của Comte là “Order and Progress” (Trật
tự và Tiến bộ) được ghi trên quốc kỳ Brazil. Châm ngôn này dễ dàng làm theo.
Lịch sử không ghi lại điều đó. Nhưng
Thánh Teresa, lúc 14 tuổi, đã hiểu những điều mà dân trí thức không thể hiểu, mặc
dù họ dành cả đời để nghiên cứu, đó chính là KHOA HỌC TÌNH YÊU.
Soloviev cảm thấy rằng sự khủng
hoảng triết học Tây phương là do sai lầm khi đề cao kiến thức (lý lẽ) hơn thứ
khác (đức tin). Ông cho rằng điều này bắt đầu nổi lên trước thời kỳ Khai
Sáng (thế kỷ 18, đề cao lý trí). Thời kỳ này cũng củng cố tư tưởng cho rằng khoa
học nên thay thế cho luân lý truyền thống hệ thống đạo đức. Cuối cùng, nó bị
coi là “phi khoa học”.
Toàn bộ luân lý truyền thống dựa
trên những gì Chúa Giêsu xác định là hai giới răn quan trọng nhất: Mến Chúa và
yêu người. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu nói “rất khoa học” – đưa ra kiến
thức đích thực – chứng thực tính ưu việt của tình yêu. Loại bỏ luân lý truyền
thống không giải phóng con người khỏi quy luật, mà lại bao hàm mối nguy có thật
là mất tình yêu.
Khoa học phong phú hóa thế giới
bằng nhiều cách, nhưng đó không là nền tảng để người Công giáo hiểu rằng khoa
học là phương cách tự bào chữa về “cuộc tranh luận sinh học đạo đức đương đại”
(contemporary bioethical debates). Soloviev đã nhận thấy điều nguy hiểm khi
loại bỏ kiến thức tôn giáo và triết học. Ông không cho phép thông báo các tiến
bộ khoa học. Ông nhận xét: “Để có kết
thúc hợp lý, nguyên nhân chính của thuyết vị lợi tương đương với sự phủ nhận
hoàn toàn đối với luân thường đạo lý”. ĐGH Benedict XVI nói điều này vẫn
như trước đây.
ĐGH Benedict XVI nói rằng chỉ có “khoa
học tình yêu” mới là “dạng khoa học cao cấp nhất”. Theo Thánh giáo hội Gioan
Phaolô II, “khoa học tình yêu” có thể bảo vệ nhân loại khỏi các hệ lụy xói mòn do
thói vị lợi ngày nay, và “chỉ có tình yêu mới có thể ngăn ngừa người này lợi
dụng người kia” [cuốn “Tình yêu và Trách nhiệm” của ĐGM Karol Wojtyla (sau là
ĐGH Gioan Phaolô II), năm 1960]. Chỉ có tình yêu mới có thể kéo chúng ta ra
khỏi sự vô nghĩa mà chủ nghĩa duy vật truyền bá.
Không lâu trước khi qua đời tại Auschwitz,
Edith Stein đã viết bài nghiên cứu chi tiết về triết học của tư tưởng theo Thánh
Gioan Thánh Giá, với tựa đề là “Khoa học Thánh Giá” (Science of Cross). Tài
liệu này là đỉnh cao của sự khôn ngoan. Trong đó, bà cho biết rằng bà gọi là “khoa
học của các thánh” với “sự thật của các niềm tin” (không bao giờ trái ngược với
khoa học hoặc lý lẽ).
Tôi nghĩ rằng thuật ngữ này có sức
mạnh lôi cuốn cả người tin lẫn người không tin, nó mời gọi chúng ta xem lại
những gì chúng ta ngụ ý bằng khoa học – và bằng tình yêu, điều mà Thánh Gioan
Phaolô II gọi là “ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi người”.
Các thánh theo đuổi các ơn gọi khác
nhau của tình yêu bằng cách theo “phương pháp khoa học” mà Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường” (Mt 11:29). Chúng ta còn tìm kiếm gì xứng đáng hơn Thánh Tâm
Chúa – “Lò Lửa Tình Yêu”?
Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
nhắc chúng ta nhớ tới “Con Đường Bé Nhỏ” mà không khoa học gia nào có thể hiểu
nổi. Con đường đó chỉ có thể hiểu được nhờ tình yêu, một thực tế sâu sắc nhất
của cuộc sống.
MATTHEW HANLEY
0 nhận xét:
Đăng nhận xét