Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu
trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là
Felix, một người được kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương
người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho
người nghèo.
Bà Jane có 2 con trai là Mannes và
Anthony, nhưng bà muốn có thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu
xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng
Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã
được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là
tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô
và Giáo hội”.
Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai
là Dominic (Đa Minh).
Trước khi sinh con, bà Jane đã có
giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con
chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới.
Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old
Castile , năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ
đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của
bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi
sáng những người ở trong bóng tối.
Thánh Đa Minh được trông mong nhiều,
nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có
chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang.
Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng sùng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp
việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc
đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.
Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên
Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật Thánh
Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và
khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được nhiều người
yêu mến và kính trọng.
Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời
Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây
ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại
để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa Fanjeaux và
Montreal , không xa núi Pyrenees .
Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen
(*) đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là
công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp.
Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh
sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những
người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu
nhiệm Nhập thể.
Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi
thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than
thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho những người theo tà
thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.
Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao
động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới
bằng sương hồng ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt
đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic
Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mai Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh
Lạy Cha, con sẽ bội thu”.
Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo
mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mai Côi, bắt đầu từ
Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis
Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới
nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh
rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm
chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống
đời Kitô hữu.
Sau thành công tại Toulouse, thánh
Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để
truyền bá Kinh Mai Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi
những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”. Sức chịu đựng
của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập
trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến
một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần
một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc
kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người
theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một
lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện
trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều
đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài
giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.
Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở
các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mai Côi (Confraternity
of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của thánh Đa Minh tạo sự
nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort
viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao
giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mai Côi cũng được tin
là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count Simon de Montfort dẫn đầu, trong
trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua
Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.
Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6
người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một
dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống chung, và chương
trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy
dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người
giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa
của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh
đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết
Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống
theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày
22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố
thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.
Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã
chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các
phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài khuyến khích
người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian,
nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh
Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi hấp hối, ngài vẫn an ủi
người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi
sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên
đời này”.
Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ
của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế
giới.
Thánh thi hay Chuỗi Mai Côi?
Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mai
Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mai
Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mai
Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.
Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa
là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do
tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” – từ ngữ “Chuỗi Mai
Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh, người Pháp, được
thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích ngài khôi phục
Chuỗi Mai Côi.
Dạng Chuỗi Mai Côi như chúng ta
thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã
mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng
Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH Gioan Phalô II
đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mai Côi truyền thống. Gọi là “Mầu
nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi
chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.
Tặng phẩm của Áo Đức Bà
Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra
với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng
về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia nhập dòng này. Các
bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra,
Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu cho ngài, chữa bệnh cho
ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular, Áo Đức Bà). Đức Mẹ
nói: “Đây là áo dòng của con”.
Tại sao lần Chuỗi Mai Côi?
Thế kỷ XV, Lm Alan de la Roche,
Dòng Đa-minh, bảo đảm Chuỗi Mai Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:
1. Tội nhân được tha thứ.
2. Linh hồn nào khao khát sẽ được
thỏa khát.
3. Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh
phúc.
4. Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.
5. Người nghèo được giúp đỡ.
6. Tu sĩ được canh tân.
7. Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.
Về Chuỗi Mai Côi, Thánh GH Gioan
Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mai Côi là giao
phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.
ROBERT FEENEY
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ CatholicDigest.com)
(*) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung
cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và
XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là lạc giáo thời Tòa án Dị giáo
(Inquisition hoặc Catharism).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét