Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, và câu đầu tiên
của Ngài là một lời chúc: “Bình an cho
anh em” (Ga 20:19; Ga 20:21). Điều đó chứng thực rằng sự bình an rất quan
trọng trong cuộc sống của chúng ta. Ở đâu có hòa bình (bình an tâm hồn và xã
hội) là có hạnh phúc; ngược lại, ở đâu có chiến tranh là có đau khổ, bất hạnh.
Chắc hẳn nhiều người đã từng nghe
nói tới văn sĩ người Nga là Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910), và tiểu
thuyết của ông là “Chiến Tranh và Hòa Bình” (tiếng Nga: Война и мир /voyna i
mir/, tiếng Anh: War and Peace). Tác phẩm “Chiến Tranh và Hòa Bình” là một
trong hai kiệt tác của ông – tác phẩm thứ hai là “Anna Karenina”. Ông là tiểu
thuyết gia, triết gia, nhà cải cách giáo dục, nhà tư tưởng đạo đức, người ăn
chay, người ủng hộ hòa bình, người theo chủ nghĩa vô chính phủ, là tín đồ Cơ
Đốc giáo và là người uy tín của dòng họ Tolstoy. Chủ trương bất bạo động của ông
đối với các điều xấu đã ảnh hưởng tới Mahatma Gandhi – vị thánh của dân tộc Ấn
Độ.
Tác phẩm “Chiến Tranh và Hòa Bình” là
tiểu thuyết lịch sử phản ánh một giai đoạn bi tráng của xã hội Nga, từ giới quý
tộc đến nông dân, trong thời đại đế Napoléon. Tác phẩm này được nhà xuất bản
Russki Vestnik ấn hành lần đầu trong những năm 1865-1869, và đã được đạo diễn
King Vidor dựng phim hồi năm 1956. “Chiến Tranh và Hòa Bình” được đánh giá là
một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của văn học thế giới.
Nói đến chiến tranh, người ta
thường nghĩ ngay tới bạo động, bạo lực, gươm giáo, bom đạn, súng ống,... Tuy
nhiên, chiến tranh không chỉ là chém giết nhau hoặc máu lửa, mà còn các loại
chiến tranh khác: Chiến tranh tâm lý, chiến tranh văn hóa, chiến tranh tư
tưởng, chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm linh, chiến tranh nội tâm, chiến
tranh đói nghèo, chiến tranh giới tính, chiến tranh hôn nhân, chiến tranh gia
đình, chiến tranh giai cấp, chiến tranh đảng phái, chiến tranh tôn giáo,...
Chiến tranh có thể xảy ra giữa nước
này với nước khác, giữa vùng này với miền khác, giữa nhóm này với nhóm khác,
giữa bộ tộc này với bộ tộc khác, giữa người này với người khác, thậm chí là nội
chiến và chiến tranh trong chính con người của mình. Chiến tranh nội tâm là sự
giằng co giữa thiện và ác, điều mà Thánh Phaolô đã từng đề cập: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi
muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15).
Chiến tranh nội tâm thật là khủng khiếp, như tục ngữ Việt Nam nói: “Lo bạc râu, sầu bạc tóc”. Đau khổ khiến
người ta tiêu điều, tiều tụy và suy sụp rất mau!
Vì miếng ăn và vì quyền lợi mà
chiến tranh xảy ra. Có chiến tranh nên luôn cần có hòa bình, có chiến tranh mới
biết quý trọng hòa bình – cũng như có đau khổ mới biết quý trọng hạnh phúc.
Bình an cuộc sống là điều cần thiết, ai cũng khao khát, vậy mà người ta vẫn gây
hấn và hiếu chiến. Chung quy cũng chỉ vì ích kỷ, vì “cái Tôi” quá lớn, chỉ muốn
đè bẹp người khác để chứng tỏ “bản lĩnh” của mình. Chiến tranh, dù ở dạng nào,
cũng là do thiếu tình yêu thương và vì dã tâm của con người!
Chiến tranh và hòa bình là hai thái
cực đối lập. Nhưng người ta nói: “Nếu bạn
muốn hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Câu này là do câu tục ngữ Latin: “Si vis pacem, para bellum”. Nguồn gốc
câu tục ngữ này vẫn còn là một điều bí ẩn. Câu tục ngữ này được tin tưởng
một cách rộng rãi, có thể là đúng mà cũng có thể là sai. Người ta cho rằng câu
đó bắt nguồn từ một câu của sử gia Rôma là Publius Flavius Vegetius Renatus: “Igitur qui desiderat pacem, praeparet
bellum”. Câu này có trong một tác phẩm của ông là cuốn “Epitoma Rei
Militaris” (Về Quân Sự), có thể đã được viết vào khoảng năm 390.
Có một sự khác biệt khó có thể nhận
ra giữa hai câu trên. Câu thứ nhất mạnh mẽ và dứt khoát. Đó là một mệnh đề phụ
thuộc, mở đầu là một mệnh đề có trạng từ bổ nghĩa với một động từ. Một câu bình
thường yêu cầu phải có một động từ chính để trình bày nhưng tác giả đã biến nó
thành câu điều kiện và câu mệnh lệnh: “Nếu
bạn thật sự muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”.
Trong câu thứ nhì, tư tưởng của
Vegetius chỉ là một giả thuyết. Nó ít quả quyết, ít dứt khoát hơn, trong điều
kiện giả định với một mệnh đề với cả hai động từ trong lối trình bày là dạng
mệnh lệnh cách: “Bất cứ ai trước khi muốn
có hòa bình đều phải chuẩn bị cho chiến tranh”. Tất nhiên câu này không
mang ý nghĩa khuyến khích chiến tranh.
Chiến tranh thật là khủng khiếp.
Nếu là người Việt Nam từ 50 tuổi trở lên thì có thể “trực tiếp” biết sự tàn
khốc của chiến tranh về cả thể lý lẫn tinh thần và tâm lý, sự tàn phá cứ âm ỉ
và dai dẳng. Cái chết của người thân bị giết gây ảnh hưởng nặng nề tới ông bà,
cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh chị em, bạn bè, xóm giềng,... Lệ sầu rơi xuống
không chỉ cay mắt và mặn môi, rồi sẽ khô và nguôi ngoai theo thời gian, nhưng
quan trọng hơn là nó còn làm “ướt” nhiều thứ khác và hầu như không bao giờ “khô”
được. Vết thương thể lý sẽ khỏi, chẳng chóng thì chày, nhưng vết thương tâm lý
lại rất khó lành – đôi khi có thể trở thành mãn tính!
Bà Agatha Christie (1890-1976), nữ
tiểu thuyết gia về tội phạm và kịch tác gia người Anh, nhận định: “Bây giờ người ta kinh hãi nhận ra rằng
chiến tranh chẳng giải quyết cái gì cả, thắng một cuộc chiến cũng thảm khốc như
thua cuộc”. Người Việt cũng nói: “Chưa
đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”.
Chuyện đời lạ lắm, đôi khi người hả hê thắng cuộc lại chính là người thê thảm thua
cuộc, người bị coi là thua cuộc lại chính là người thắng cuộc.
Thật vậy, lịch sử cho thấy rõ ràng:
Chúa Giêsu bị người ta giết chết thê thảm trên Thập Giá, người đời coi như Ngài
bị thua cuộc, nhưng không ngờ Ngại lại dùng chính Thập Giá làm đòn bẩy để tới
chiến thắng hiển hách: Phục Sinh vinh quang. Đau khổ không là bất hạnh mà là
hạnh phúc: “Chúa thương ai thì mới sửa
dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Và chắc chắn, sau đó sẽ là phần thưởng ngọt ngào khôn tả!
Ông John Abbott (1821-1893), thủ
tướng thứ ba của Canada, định nghĩa: “Chiến
tranh là khoa học của sự hủy diệt”. Một cách định nghĩa thật thú vị, hay
quá! Còn ông Deepak Chopra (sinh 22-10-1947), tác giả và diễn giả người Mỹ, xác
định: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là biến đổi ý thức của mình để bạo lực không còn là một lựa chọn trong cuộc
sống cá nhân, để hiểu rằng một thế giới hòa bình chỉ có thể có được nếu chúng
ta coi nhau như những con người hòa bình, từng cá nhân một”. Bất bạo động,
ôn hòa, hiền lành và khiêm nhường, đó là những thứ tạo nên hòa bình. Chúa Giêsu
nhắn nhủ: “Anh em hãy mang lấy ách của
tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh
em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt
11:29-30).
Thi sĩ Ralph Waldo Emerson
(1803-1882), người Mỹ, cho biết: “Những
chiến thắng đích thực và bền lâu là chiến thắng của hòa bình, chứ không phải là
chiến thắng của chiến tranh”. Quả thật, không có chiến thắng nào vinh quang
bằng chến thắng của Hòa bình và Công lý, vì đó mới chính là Sự Thật hoàn toàn
thật. Và người chiến thắng vẻ vang là chiến thắng của những người biết kiến tạo
hòa bình vì danh Chúa: “Phúc thay ai xây
dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
Còn nhiều nơi trên thế giới còn đủ
dạng chiến tranh, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, đặc biệt là các Kitô hữu đang bị
bách hại bởi những kẻ dã tâm ngông cuồng thuộc ISIS (Islamic State of Iraq and
Syria, Nhà nước Hồi giáo). Có những quốc gia đang hưởng hòa bình về phương diện
xã hội, nhưng họ chưa thực sự có hòa bình đích thực về tinh thần. Chúng ta hãy
cầu xin Thiên Chúa thương xót và ban hoà bình cho những nơi trên thế giới đang
bị tàn phá bởi chiến tranh và bạo lực, nhất là xin cho họ luôn được bình an tâm
hồn. Chúng ta cầu nguyện cho họ cũng chính là cầu nguyện cho chính mình vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản
thân” (Kinh Hòa Bình, Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng sinh và giàu lòng thương xót, xin giải
thoát chúng con khỏi mọi thứ chiến tranh. Xin giúp chúng con biết đoàn kết cùng
nhau tiêu diệt chiến tranh và kiến tạo hòa bình, để chúng con NÊN MỘT (Ga
17:20) như Chúa Cha và Chúa Con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để nhờ hiệp
nhất như vậy mà chúng con được ở trong chính Thiên Chúa. Xin ban Thần Khí của
Chân Lý, Công Lý và Bình An để chúng con trở thành những khí cụ bình an hiệu
quả của Ngài mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
0 nhận xét:
Đăng nhận xét