Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

THUẬT TRỊ QUỐC VÀ GIỮ NƯỚC (Kỳ 4)




THUẬT TRỊ QUỐC VÀ GIỮ NƯỚC (Kỳ 4)



VI. CHÍNH SÁCH DỤNG NHÂN VÀ CẤU HIỀN TÀI 


Bất cứ một Quốc Gia nào trên trái đất này, người lãnh đạo giỏi, tài đức, là người biết dùng người hiền tài, diệt kẻ dữ, kẻ tàn bạo và các tay nịnh thần, để có một sách thuật dụng nhân hiệu qủa. Vì đây là một tất yếu, một quyết định sáng suốt trong vấn đề trị Quốc, nhất là làm người lãnh đạo một Quốc Gia cho nên phải biết cách dụng nhân này. 

Nếu chúng ta biết dùng người hiền, kẻ có đức độ và người tài, tất Nước Nhà được yên ổn cùng hữu ích cho dân chúng. Bởi các vị đó sẽ quên mình để phục vụ Quốc Gia, Dân Tộc. Thật sự những người hiền đức tài nhân, thường là các kẻ trọn đời mình chỉ biết đặt quyền lợi của Nước trước cái lợi của mình. Họ là người chỉ biết « tiên thiên hạ chi ưu, nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc, nhi lạc ». Có nghĩa là họ lo trước cái lo của thiên hạ, và vui sau cái vui của người ta. Họ là người chỉ vì người, vì thiên hạ mà thôi. Thế nhưng Hà Nội không có chính sách dụng nhân này. Họ toàn dùng người của gia đình và gia tộc, phe cánh hay đảng viên Việt cộng cả, nắm giữ các công ty lớn Quốc Doanh hay tư nhân. Như tớ báo Foreign Policy ra ngày 21.01.2010 có bài viết của Bill Hayton với tựa « Vietnam’s New Money, Đồng Tiền Mới Việt Nam ». Ông cho biết con gái Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Phượng 27 tuồi, chủ tịch công ty đầu tư Vietcapital lấy Nguyễn Thanh Hoàng 36 tuổi, là chủ tịch công ty đầu tư IDG Ventures Vietnam. Vốn đầu tư của hai người gom lại ước chừng 150 triệu Mỹ Kim. Ngoài ra thị tộc anh chị em của Nguyền Tấn Dũng là chủ nhân hơn 10 ngân hàng lớn làm ăn lớn của Việt Nam. 

Người thứ hai là Trương Gia Bình, phò mã tên đại tướng Võ Nguyên Giáp biệt danh là « cầm quần chị em » (vì sau khi bị Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đá ra khỏi Bộ Tà Trị, còn một chút vị tình nên ban cho cái chức danh là Phó Thủ Tướng Trưởng Ban Kế Hoạch Hóa Sinh Đẻ. Bởi vậy dân gian có thơ rằng : ngày xưa Đại Tướng cầm quân, ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em). Tên Bình này hiện thời là chủ tịch công ty tin học F.P.T lớn nhất Việt Nam. Và người thứ ba ông Bill Hayton nói đến là Đinh Thị Hoa, sau khi tốt nghiệp MBA-Cao Học Kinh Doanh tại đại học Harvard về Việt Nam. Khi Hoa về Nước thì thiết lập công ty Galaxy, lại sở hữu thêm hãng PR (tiếp thị quảng cáo), là chủ nhân hầu hết các hệ thống tiệm ăn theo cách Tây Phương tại Việt Nam, lại có một rạp hát lớn ở Sài Gòn, và cả một hãng sản xuất phim ảnh. Hoa là con ông lớn Thứ Trưởng Ngoại Giao. Galaxy là một trong nhiều công ty khác là sở hữu của các con ông lớn, cán nhớn của Đảng cộng. 

Qủa cộng sản Hà Nội áp dụng một loại chính sách hóa gia đình trị, đảng trị như chúng tôi đã nói qua trong bài « Chính Trị Nhân Bản . Chúng hay là con cái của chúng, nắm hết các công ty lớn, các ngân hàng lớn, các hảng xưởng lớn của Việt Nam hiện nay. Rồi chia chát nhau quyền lợi kinh tế, chia chát nhau tiền kiếm được và tẩu tán tài sản kiếm được một cách bất chánh đó ra nước ngoài, bỏ ở các ngân hàng Thụy Sĩ, Lục Xâm Bảo vv. Đó là thành qủa « đổi mới kinh tế » của tập đoàn cộng sản Hà Nội và cái Đảng cộng, chuyên đi cướp của dân chúng Việt Nam hơn ba thập niên qua ! 

Thế đó, thưa qúy vị cách dụng nhân là vấn đề tối quan trọng, một chính sách hay, song không có người hiền đức, tài ba giúp cho thì chính sách ấy sẽ hư đi, làm cho lòng dân thêm phân tán và căm thù. Vì chính sách này rất hệ trọng, nên ngày xưa Tể Tướng Quản Trọng đã nói với Tề Hoàn Công rắng :« Trong Nước có người Hiền Đức mà không biết là cái hại. Biết người Hiền Đức lại không dùng là cái hại thứ hai. Dùng họ mà không dám giao việc lớn và chuyên nhất là cái hại thứ ba ». Qủa nghiệm thay câu nói của Quản Trọng Thừa Tướng đối với Đất Nước chúng ta hiện thực. Với chính sách « ngu dân hóa », Nhà Nước và Đảng Cộng Hà Nội đã xem thường tri thức, người hiền tài như Mao Trạch Đông xem trí thức thua cả cục phân. Họ trù dập, bắt bớ tri thức và kẻ hiền tài, đức độ qua chính sách tiêu trừ « tri, phú, địa, hào » đào tận gốc, trốc tận rễ rập khuôn theo đường lối Trung Cộng thời Mao Trạch Đông, dã tâm không cho người hiền đức, trí thức tài ba ra giúp Nước với các chương trình, đề án xây dựng làm cho dân giàu Nước mạnh của họ. Như vậy, qúy vị thấy cầu hiền tài là một việc đại trọng biết bao cho Đất Nước. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ cũng có cái khó khăn là phải biết dùng người, có nghĩa là chúng ta phải rõ sở trường, sở đoản, tài năng, kiến thức của họ, thì cái tài và sở trường ấy có thể phát huy đúng tài năng của họ, hầu ích Nước lợi Dân. Nếu chúng ta không biết dùng tài năng của họ đó, tất các tài năng này sẽ bị mai một với thời gian và tuổi tác. 

Quả từ ngàn xưa cho đến thời nay, Quốc Gia có hưng thịnh là nhờ các hiền tài giúp Nước. Các người hiền tài góp phần làm ích Quốc lợi Dân không nhỏ. Các nhà lãnh đạo dầu họ có giỏi mấy đi nữa, cũng không thể biết hay làm hay được hết. Do thế, các vị ấy cần phải có những người hiền tài giúp tay vào guồng máy chính trị, hầu Quốc Gia mới thăng tiến được. Chúng tôi nhận thấy phải là bậc Minh Quân, Lương Tướng mới được người hiền tài giúp Nước. Chúng ta thấy Châu Văn Vương biết trọng dụng Khương Tử Nha mà làm nên nghiệp Nhà Châu. Tề Hoàn Công tạo dựng được nghiệp Bá là nhờ tài điều binh, khiển tướng, an dân, định quốc của Quản Trọng. Qủan Trọng là bậc Tướng tài mới có được những hiền tài Thập Bằng, Tân Tô Võ, Nịnh Thích, Bào Thúc Nha phò giúp cho. Hay như chúng ta thấy Lưu Bang nếu ông không dụng được hiền tài giúp, thì làm sao ông lập nên được Nhà Hán lừng danh thiên hạ. Vì Tào Thám, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín, đều là các bậc hiền tài hơn người. Qủa như Lưu Hán Bang không biết trọng dụng các vị này, thì họ Lưu chắc chắn khó trở nên Nhà Hán, mà suốt đời ông chỉ là anh Đình Trưởng một làng nhỏ vô danh mà thôi, không ai biết đến. 

Thời thế nào cũng thế, xưa cũng như nay : chúng ta xem trong thời đại Quốc Xã, tàn ác như Hitler, ông cùng biết đến sách dụng nhân, mà đã trọng dụng Rommel, Ribbentrop, Himler, Goering, để lập nên một Đức Quốc Xã hùng mạnh làm khuynh đảo cả Âu Châu. Hoặc các cựu Tổng Thống Mỹ, như J.F.Kenedy có được một ban tham mưu hùng hậu, gồm các người tài nhân giỏi về quân sự, an ninh, kinh tế, giáo dục, xã hội, luật pháp, chiến thuật và chiến lược. Còn Tổng Thống Johnson ông có đến 18 bộ óc nhân tài giúp cho. Rồi đến Reagan, ông có biết bao nhân tài giúp cho trong chiến lược « Chiến Tranh Các Vị Sao-Stars War » làm cho Liên Sô phải sụp đổ tan tành khi theo đuổi sự chay đua vũ khí chiến lược với Mỹ. Trong 8 năm cầm quyền ông đã đề nghị Quốc Hội Mỹ một ngân sách khoảng 2000 tỷ Mỹ Kim cho Bộ Quốc Phòng, để chế tạo các loại vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại hóa quân lực Mỹ bằng các loại chiến đấu cơ, máy bay bỏ bom, trực thăng chiến đấu, hàng không mậu hạm, radar, súng ống, hỏa tiển liên lục địa vv. bằng kỷ thuật cao, và độ chính xác. Thế đó « bất chiến tự nhiên thành » là vậy! Rồi đến Tổng Thống Bush Cha cũng như Bush con cũng vậy, bên cạnh các ông có nhiều cố vấn tài ba trong đường hướng ngoại giao cũng như quân sự, nên mới thắng hai cuộc chiến tranh với Taliban và Sadam Hussen. Nay đến thời Tổng Thống Obama, bên cạnh ông cũng có nhiều người hiền tài giúp ông. Nói tóm lại, các ông đều có những hiền tài giúp cho mà thành danh tiếng để đời. Vả nữa, sở dĩ Nước Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh lạ thường, một phần lớn là họ biết trọng dụng nhân tài và ưu đãi người hiền tài , những nhà tri thức và tài nhân, rồi cho các vị ấy có đất dụng võ. Người Mỹ và Chánh Phủ Mỹ biết trả lương bội hậu cho các nhân tài một cách xứng đáng với các tài năng của họ, như về các ngành chính trị, kinh tế, thương mại, khoa học kỷ thuật, y tế, luật pháp vv.. 

Vì thế, người lãnh đạo giỏi là người khôn ngoan biết xử thế, có con mắt nhận diện con người. Có nghĩa biết trọng dụng người hiền đức tài ba cùng ngay thẳng, và loại tức thì kẻ gian tà nịnh hót cùng sám tấu tào lao. Bởi người hiền đức tài ba và ngay thẳng làm ích rất nhiều cho Đất Nước cùng Dân Tộc. Trái lại, kẻ gian tà, phường nịnh hót, sàm tấu và người hài lòng chỉ làm hại cho Nước, cho Dân thôi. Vậy, muốn cho Đất Nước bền vững, thì ta phải làm sao cho an dân, và biết dụng nhân cho đắc nhân tâm, ắt Nước Nhà được hùng mạnh, dân thái được giàu sang. Nói tóm lại, những người làm chính trị giỏi, là biết nhìn xa, trông rộng, hầu tạo nên một thế đứng cho cục diện tương lai … Theo chúng tôi nghĩ, thì cuộc tranh đấu chính trị của chúng ta hôm nay cũng như trong tương lai, có lợi hay không, là do vào các đấng làm chính trị, lãnh đạo các Đảng phái có thực tâm yêu Nước, yêu Dân chí tính và có một kiến thức uyên bác biết trông rộng, nhìn xa chăng… ? Nhất là, cần có chính sách An Dân, Dụng Nhân, Cầu Hiền Tài như chúng tôi đã nói trên, thì hy vọng mới gặt hái được thành qủa tốt đẹp cho Nước Nhà. 


VII. CHÍNH SÁCH TỰ LỰC VÀ TỰ CƯỜNG 


Kính thưa Qúy Vị, 

Qủa như qúy vị nghĩ, qúy vị muốn có một đời sống độc lập để tự tạo sự nghiệp và cơ nghiệp cho mình, thì chúng tôi nghĩ không gì hay bằng qúy vị biết tự lực lấy mình. Đây là một yếu quyết tự lập thân, nếu qúy vị không muốn bị ràng buộc với ai hoặc bị thiên hạ đè nén. 

Cũng thế, một Quốc Gia muốn vững mạnh, muốn tạo cho mình thế đứng mạnh, có tiếng nói được người người lắng nghe trên Thế Giới Năm Châu hoặc trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, thì không gì bằng phải biết tự cường, từ vị Quốc Trưởng đến Toàn Dân đồng lòng tự xây dựng lấy Quốc Gia mình. Trái lại, Quốc Gia đó lúc nào cũng chỉ ỷ lại, cậy dựa vào cái thế mạnh của người Nước ngoài, cho dẫu họ là đồng minh với mình đi nữa, thì sớn muộn gì Quốc Gia đó cũng bị người ta bóp chẹt đủ điều và thường đi đến chỗ là thuộc hẳn ngoại bang. Đây là lý lẽ tất nhiên không ai chối cãi được. Bài Học của ông Thiệu với Mỹ, cũng như bài học ông Hồ Chí Minh và nhà cầm quyền Hà Nội hiện nay với Trung Cộng là cụ thể. 

Trước hết, chúng tôi xin thuật lại câu chuyện cụ thể của Nước Đằng vào thời Đông Châu, để cho chúng ta thấy rõ cái lý tự lực cùng tự cường quan trọng như thế nào. 

Văn Công Nước Đằng Với Thầy Mạnh Tử 

Vào một buổi đẹp trời Văn Công Vua Nước Đằng xin vấn kế Thầy Mạnh Tử như sau 

- Thưa Thầy, Thầy biết Nước Đằng chúng tôi là một Nước nhỏ, ở vào cái thế gọng kìm của hai Nước lớn Tề và Sở. Kể về phận thì phải lụy cả hai Nước, còn kể sức thì ta không thể chịu được cả hai. Như thế, theo Thầy ta phải làm sao, chiều Tề hoặc chiều Sở ? Qủa thực ta không biết nương tựa vào Nước nào cho Nước Đằng ta được yên ổn. Vậy ta kính nhờ Thầy có mưu kế vẹn toàn nào khá hay, xin kính giúp cho ta xem. 

Thầy Mạnh Tử đáp lời 

- Theo tôi nghĩ, việc Nước mà cứ trông cậy vào người ta, thì không thể vững được : nếu ngài chiều Tề thì Sở giận, mà chiều Sở thì Tề giận, mưu ấy tôi chưa nghĩ kịp. Song tôi nhận thấy hiện tình Nước Đằng chỉ còn một cách là mình hãy cứu lấy mình. Tự mình giữ lấy Nước, có nghĩa bằng cách đào hầm cho sâu, đắp thành chận địch cho cao. Thêm ngài hãy huấn luyện quân lính cho giỏi thiện chiến, cai trị một cách công minh, chính trực hầu tạo thế cấu kết dân tâm, để cùng một lòng với dân mà giữ Nước, thì dân theo gương đó mà nhiệt tình giữ Nước không nở bỏ Vua, bỏ giang sơn vậy. Thế là ta cùng lấy lòng dân hầu giữ lấy Đất Nước, tự cường mà lo toan việc Nước. Còn việc chiều Tề hay chiều theo Sở thì tôi không thể quyết cho ngài được. 

Vua Đằng sau khi nghe các lời chỉ giáo của Thầy Mạnh Tử thì mới mở mắt và trí hiểu rằng, tiên vàn phải biết tự lực và tự cường hầu giữ lấy Nước Nhà. Qủa nhiên, Văn Công Vua Đằng tất tất nghe theo lời Thấy Mạnh Tử mà thực hành nên giữ được Đất Nước. Từ đó, Tề và Sở ngại không còn lăm le, mưu toan để cướp lấy Nước Đằng nữa. Nhờ vậy Nước Nhà được bình an. 

Qua câu chuyện này, chúng ta nhận thấy Văn Công Nước Đằng qủa là con người không ra gì. Thân làm Vua một cỏi, chúa tể của một Nước, nhưng không biết lo cấu kết với dân tâm mình, để nhờ vào sức mạnh của dân mà dựng cho Nước hùng cường - Thế nhưng, ông lại cứ nghĩ đến đi trông cậy vào người. Cái lạ đời la thế! Cũng vậy, chúng tôi thấy một số người Việt chúng ta, các Hội Đoàn hay các Đảng Phái Việt ta xưa cũng như nay, họ cứ trông ngóng chờ Mỹ, Pháp, Liên Hiệp Âu Châu vv., giúp hay bật đèn xanh cho thì làm. Chúng ta nên bình tâm nghĩ lại, cứ trông cậy và ỷ lại vào người, tất nhiên sẽ bị người ta trói buộc vào các điều kiện của họ, hoặc bị sai khiến làm lợi cho người ta, chớ ai dại gì mà giúp không công cho mình. Vì viện trợ nào cũng có mặt trái của nó như Mỹ, Pháp, Trung Cộng vv.. 

Do đó, chúng tôi nghĩ rằng : cái sách giao tế và trông cậy, chớ không phải thần phục với Nước mạnh, vì đây là chỉ là cái thế nhất thời tùy giai đoạn mà thôi! Còn cái chính sách biết tự cường, tự lo lấy mình và lo cho Quốc Gia, thì đây mới là chính sách bảo đảm vĩnh cửu cho Dân, cho Nước được bình an. Tuy nhiên ở đây, chúng ta nhận xét Văn Công Vua Nước Đằng chỉ lo nghĩ đến thần phục Nuớc mạnh (không khác gì kiểu cách Hà Nội ngày đêm lạy lục, thần phục bọn Rợ Hán Trung Cộng), mà không ưu tư nghĩ đến việc làm cho Nước mình mạnh, Dân mình hùng cường, mới thật là người có trí lớn, người nhìn xa trông rộng. Vua Nước Đằng qủa đã quên, có sức mạnh nào bằng sức mạnh của lòng dân! Chúng tôi tự nghĩ thật Văn Công biết lo cấu kết dân tâm, và biết dùng các sách luợc dựng Nước bằng các đường lối « Thứ Chi, Giáo Chi, Phú Chi » cho người dân biết được nghĩa Nước, yêu chính thể, hiểu được cái đạo làm người và làm giàu mạnh cho mình - Do thế, thì người dân sẽ đồng một lòng, một ý cùng quyết tâm sống chết với Đất Nước vậy. Khi được như thế rồi, thì Nước Đằng chẳng cần gì trông cậy vào Tề hay Sở, để bị người ta bó buộc, chè ép, và mình thì bị lệ thuộc cho nhục Quốc thề. Ôi Vua Nước Đằng chờ cho Thầy Mạnh Tử giảng nghĩa cho mới mở mắt ra mà biết cái sức mạnh của Nước mình đang có, để ngăn chận giặc, thì thật là người dở, người tồi! 

Riêng Thầy Mạnh Tử, chúng ta thấy qủa là Bậc Hiền Trí, là người tri mưu có một, mới có thể mở mắt, mở trí cho Vua Nước Đằng biết giữ Nước và dựng Nước. 

Do từ đó, chúng ta hiểu rằng một Nước mà biết Tự Cường Tự Tạo cho Đất Nước mình một thế đứng vững chắc, thì các Nước lân bang, các bạn đồng minh hay ngoại quốc, họ mới không dám khinh thường chúng ta. Còn nhân dân trong Nuớc, tất khỏi phải tủi hổ cho số phận làm giống dân « tầm gửi ». Khi chúng ta biết tự lực, tự cường, tự tạo thì không có một Nước nào dám xem khinh ta. Họ không dám xâm lấn vào chủ quyền của Quốc Gia chúng ta, mà chúng ta cũng chẳng bị Nước nào trói buộc, hoặc đòi hỏi yêu sách này nọ, hầu xâm phạm vào Chủ Quyền và Quyền Hành của Quốc Gia. Do vậy, nếu Văn Công Vua Nước Đằng không chịu nghe và thực hành theo lời chỉ giáo của Thầy Mạnh Tử, ông cứ khăng khăng theo cái chủ trương trông cậy nhờ người, thì Nước Đằng không còn là Nước Đằng nữa, vì dã mất hết Chủ Quyền rồi. 

Qúy vị thấy những điều chúng tôi nói đây, thì chúng ta thấy rõ rằng : ta mà ỷ lại vào kẻ khác, thì lẽ dễ bị sai khiến, lệ thuộc vào người ấy. Còn một Nước mà chỉ biết dùng cái sách lược trông cậy vào ngoại quốc như Mỹ, Pháp, Trung Cộng vv., tất Nuớc đó sẽ bị trói buộc và mất chủ quyền, ôi không còn gì là thể thống của Quốc Gia, tự hào của Dân Tộc nữa.Tuy nhiên, vì hoàn cảnh ngặt nghèo năm trong tư thế kẹt phải trông nhờ vào người ta, thì nên chỉ trong một giai đoạn tạm thời mà thôi. Nhưng ít nhất Quốc Gia đó, phải biết tạo cho Nước mình một thế đứng vững phần nào, để khỏi bị lép vế, khỏi bị người ta đưa vào cái thế trói buộc và bắt bí. Thế đó, tài ba, mưu trí, đảm luợc, hay hoặc dở của người Lãnh Đạo là ở chỗ này. 

Chúng ta xem không hẳn cái gương Nước Đằng vào thời Đông Châu xưa mới như thế. Song ngày nay, chúng ta thấy nhiều Nước cũng lâm vào trường hợp này, hoặc bao nhiêu người lãnh đạo rơi vào cái thế như Văn Công xưa kia : Như trường hợp của ông Thiệu, Ông Bảo Đại, ông Hồ Chí Minh và Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng hiện nay. Xin trở về xa hơn trong lịch sử Đất Việt, thì chúng ta có Trần Ích Tắc và Gia Long. Các vị này đã chẳng chịu nghĩ đến biết tự lực, tự cường và cấu kết với toàn dân để đánh và diệt cộng sản, đánh và đuổi Pháp hay đánh và đuổi quân Tàu ra khỏi bờ cỏi. Song họ lại đi cấu kết, trông nhờ vào người ta nên đã làm cho Nước Việt chúng ta bao lần điêu đứng lầm than và khốn đốn. Những người tối dạ, kém trí này (nói như ngôn ngữ của ngưòi Việt bên nhà, là đầu óc « toàn bả đậu ») đã ví quá ỷ lại, trông cậy và tín phục người ngoài, cho nên mới bị người ta trói buộc, kẹp chặt, bắt ép đủ điều…Điền hình cụ thể là bọn bá quyền Bắc Kinh bắt ép Hà Nội đủ diều : nay chúng đòi ký giấy dâng Đất, mai chúng đòi dâng Biển, mốt chúng bắt ký hợp đồng cho khai thác quặng mỏ, cho dân tàu phù vào làm ăn ở Nuớc ta, ngày nữa chúng đòi thuê rừng Nước ta vv. Lại nũa, bọn thồ phỉ Tàu cộng ngang nhiên xâm lần đất đai, biển cả thì chúng đi đi lại lại coi như không, còn nữa, chúng lại cướp bóc, bắn chết và đánh đập các ngư phủ Việt hiền hòa. Chúng xem thường chủ quyền Đât Nước ta đến thế là cùng ! Thế nhưng, Hà Nội và Bộ Chính Trị, và Đảng gian của chúng cứ cúi mặt, khom lưng răm rắp tuân theo những yêu sách, đòi hỏi của bọn bá quyền Rợ Hán Bắc Kinh này. Lý thực họ là người chẳng biết tri thức thời cơ thuận Dân, hòa Nước, nên mới tạo ra nhiều đổ vỡ, lắm đau thương, tạo nên vô vàn cảnh éo le, chảy máu mắt và bi đát cho Nước nhà là thế. 

Các Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Gia Long Không Biết Tự Cường Và Tự Lực 

TT Ngô Đình Diệm

Người Việt chúng ta, nhất là người Miền Nam không ai lại không rõ các ông Bảo Đại, ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, tạo được nghiệp, lên được Vua, Quốc Trưởng, Tổng Thống, Chủ Tịch Nước, đều là nhờ các bàn tay phù thủy Nước Ngoài, là Pháp, Mỹ, Nga, Trung Cộng vv.. Nhờ người mà các ông mới làm Vua, Chủ Tịch, Tổng Thống. Chúng ta thấy như ông Minh vì hàm lon « Đại Tướng » mà chạy theo Mỹ để lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và hèn hạ, bí ổi sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, làm đổ vỡ tất cả những Quốc Sách Diệt Cộng, Chính Sách Tự Cường, Tự Lực của Tồng Thống Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Cố Vấn Ngô Đình Cẩn. 

Cái xuẩn động của ông Minh, đã dốt về binh thư, chiến thuật và chiến lược, lại còn ấu trĩ và ngu dốt về chính trị khi đối đấu với ông Hồ Chí Minh và Đảng cộng tinh ranh, gian trá và lắm mưu mô, lừa đảo: Một trong cái ngu phá của ông Minh là ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến Lược, là một Quốc Sách Tự Lực và Tự Cường bảo vệ thành lũy cho xóm làng có dân sinh sống. Hà Nội và Việt cộng phải điên đảo ví Quốc Sách Ấp Chiên Lược này, chúng không thể nằm vùng, và không có được sự tiếp tế, hay bám trụ, ẩn náu được, hầu phá hoại Miền Nam. Cái ngu thứ hai của ông Minh, lá bắt bỏ tù nhiều Anh Em Cần Lao cùng những Anh Em làm viêc trong «Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung », mà ông Ngô Đình Cẩn đã dày công lập nên, họ là những chiến sĩ tình báo và diệt cộng hữu hiệu, phá tan bao cơ sở nằm vùng của Hà Nội cài lại Miền Nam sau ngày Hiệp Định 54. Chính khi Tổng Thống Diệm, Ông Nhu và Ông Cẩn chết, thì ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã nói Mỹ và Dương Văn Minh đã giúp cho chúng ta. Chúng nó ngu diết đi các ông ấy, giúp chúng ta dễ chiến thắng Miền Nam hơn – Và lịch sử đã chứng minh những điều nói này. 

Còn ông Thiệu thì khéo cúi lòn lấy điểm với Mỹ mà họ giúp cho trị vì 9 năm. Ông chỉ là con cờ cho một sách lược của Mỹ, là một sự đổi chác của Ngũ Giác Đài và Tòa Nhà Trắng với cộng sản Nga, Trung Cộng, Hà Nội cho quyền lợi của họ. Cũng như ông Minh, ông Thiệu trong 9 năm trị vì không biết tự lực, tự cường cho Miền Nam. Không chịu bắt chước học hỏi chính sách tự cường, tự lực như Tổng Thống Diệm, hay nữa là Tổng Thống Phát Chính Hy mà chúng tôi đã có nói qua ở phần trên. 

Ông Bảo Đại cũng thế, không khá gì hơn. Ông ta từ nhỏ đến lớn sống ở Pháp và học ở Pháp, rồi nhờ người Pháp đưa về mà lên ngôi Vua trị vì. Nhưng ông chỉ như một cái xác « bù nhìn », không có quyền, không có thực lực gì cả. Vì thật ông Bảo Đại chẳng phải tự sức, tự lực của mình mà dựng Nước Nhà, thế nên bị người ta trói buộc, tước đoạt hết quyền hành. Họ đưa ông lên ngôi báu để làm một vị Vua bù nhìn mà thôi. Nếu ông khôn ngoan tự tạo cho mình thế tự lực, liên kết được lòng dân về một mối, sống hòa mình với dân, chịu chia sẻ cay đắng, ngọt bùi với dân, nằm sương, nếm mật với dân, hầu tạo cho mình cái thế đứng vững trong giai đoạn ấy, thì nhân dân Việt Nam sẽ hết mình với ông, tạo cho ông một thế Nước lúc đó.Từ đó giúp ông một uy thế, và một thế đứng trên chính trường ngoại giao quốc tế cho Việt Nam. Nhờ đó, người Pháp đâu dám có thể lạm quyền, có thể ngông ngang và lộng hành như vậy. 

Bảo Đại không thực tâm yêu Nước, yêu Dân chí tình. Không có đưọc một sự cộng tác đồng lao cộng khổ với dân. Hầu như cả cuộc đời của ông chỉ có « trai gái, cờ bạc và ruợu chè », hết sống tại Cannes ỏ Pháp, thì ở Hông Kông, lại đêm ngày trong các sòng bạc Casino. Mọi công việc ông giao khoán cho các ông Thủ Tướng mà ông sắc phong như ông Ngô Đình Diệm, ông Trần Trọng Kim, ông Nguyền Văn Tâm, ông Nguyền Văn Xuân vv.. Vả nữa, đường đường là một Quốc Trưởng mà lại giao du với tên Chúa Trùm Du Đảng khét tiếng Bảy Viễn tức Lê Văn Viễn của những thập niên 30-50, làm « bảo kê và bảo vệ » cho hầu hết các phong trà ca nhạc, các cửa hàng làm ăn của các thương gia, tài phiệt Tàu -Việt ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Bảy Viễn có nhà hàng Đại Thế Giới (casino) vv.., Bảy Viễn là người như thế, mà Bảo Đại lại phong quân hàm Thiếu Tướng cho, là nhờ một sự cống nộp cho Bảo Đại nữa triệu Mỹ Kim để trác táng ăn chơi với các tình nhân của mình (Xin xem Liêm Anh : Bảy Viễn Một Đời Ngang Dọc, trang 495-496, Đại Nam Xuất Bản). Ông không có được cái sĩ khí anh hùng như các đấng tiên vương, làVua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân. 

Rồi đến ông Hồ Chí Minh, là người tệ hơn cả, và đám thuôc hạ của ông bây giờ cũng thế. Miệng thì nói « không có gì qúy hơn độc lập tự do », nhưng thực ra họ cũng chỉ là những người làm theo lệnh của quan thầy Trung Cộng, Nga Sô, chẳng tự lực, tự cường nỗi lấy gì. Họ Hồ hay đám đàn em Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đến Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải và Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng cùng Nguyễn Tấn Dũng hiện nay, cũng phải cam phận làm thân « tầm gửi » vào thế lực của Trung Cộng, Nga Sô – Nay là Tây Phương và đám Tư Bản rừng rú, để được họ viện trợ các loạị vũ khí cho, hoặc đem quân qua giúp cho như Trung Cộng, để đánh chiếm Miền Nam chúng ta. Còn ngày nay thì có tiền để bỏ vào ngân hàng, nuôi Đảng cộng và chia ghế quyền lực với nhau. Nhờ vậy, Hà Nội mới bóp chết hết các thứ tự do của người dân, và khủng bố, bắt bớ các tiếng nói đối lập cùng những người yêu Nước, tranh đấu cho dân chủ và chủ quyền Quốc Gia như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiêm, Lê Công Định, Lê Thăng Long, Phạm Anh Kim, Trần Khải Thanh Thủy Thủy, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Tạ Phong Trần, Bùi Thị Minh Hằng vv.. 

cải cách ruộng đất

Chúng ta thấy trước đây ông Hồ Chí Minh hay đám thuộc hạ ở Bắc Bộ Phủ phải tất tất tuân lệnh Liên Sô và Trung Cộng, cùng rập khuôn theo các chính sách của họ đề ra : như cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ, diệt trừ tư sản mại bản, triệt hạ trí thức văn nghệ vv.. Ngày nay thì có « chính sách đổi mới kinh tế » nữa nạc, nữa mở, hơi tạp nhạp bắt chước Đặng Tiểu Bình, chẳng ra cái gì, chì vỗ béo cho túi tiền các quan chức lớn và gia đình của chúng. 

Thế đó, chúng ta thấy ông Hồ cùng đám thuộc hạ của ông, hoặc ông Thiệu cũng như ông Khiêm, và đám người thân cận các ông quá bị lệ thuộc vào người Nước ngoài. Tương lai xứ sở của mình, mình không thể quyềt định được, lại do các tay tổ đàn anh như Mỹ, Pháp, Nga, Trung Công vv., định đoạt cho số phận Việt Nam của chúng ta. Các ông đó vì không có được sĩ khí của người biết tự trọng, lại thiếu đi chính sách Tự Lực, Tự Cường cho nên Việt Nam ta mới nên nông nỗi như ngày nay. Hơn nũa, ngay cái tên cha mẹ mình đặt ra là Nguyễn Tất Thành, mà ông Hồ còn chối bỏ tên họ cúng cơm của minh, nhận đại cái tên Hồ Chí Minh vớ vẫn nào đó của bọn Rợ Hán Trung Cộng, thì ông Hồ Chí Minh là người như thế nào, xin qúy vị và đồng bào Việt phẩm nghị cho ? Là con người thì có cội, có nguồn, không mang họ cha, thì mang họ mẹ khi mình có cha me đặt tên cho. Một người vong quốc như ông Hồ Chí Minh, chối bỏ Họ Tên của mình , của gia tộc, của Dân Tộc, thế mà Hà Nội xưa cũng như nay tôn thờ, học hỏi « tư tưởng » bất hiếu, phản dân tộc, vô ơn, bội nghĩa với Đấng Sinh Thành, và giòng máu Việt. Ông Thiệu, tệ hại hơn, ông lại đi nuôi tên tình báo cao cấp Huỳnh Văn Trọng trong Dinh Đôc Lập của mình, không khác gì rước phỉ giặc cộng Hà Nội vào Miên Nam trong nay mai thôi. Vậy ông Thiệu là ai ? Có góp công sức cho Hà Nội làm sụp đổ Miên Nam chăng ? (xin xem Trần Trung Quân : Lái Buôn Tổng Thống, Tinh Báo Chiến Lược Tại Dinh Độc Lập, Nam Á xuất bản 1990, trang 157-158). 

Qúy vị khi nhìn lại lịch sử Nước Nhà vào những thế kỷ trước đây, để suy gẫm sâu xa về chính sách này. Qúy sẽ thấy buồn lắm thay : một Gia Long kém trí nhìn xa, không biết tự lực cấu kết lấy nhân tâm để chống lại Tây Sơn, mà chỉ lo đi cầu khẩn hết Xiêm La đến Pháp, lo van nài cầu lạy Giám Mục Bá Đá Lộc, nhờ ông ta cầu viện Nước Pháp giúp cho mình hầu thắng quân Tây Sơn. Đề rồi không ngờ rằng mấy chục năm sau cái chết của Gia Long, thì người Pháp đã theo vào lập nên chế độ đô hộ ngót gần một thế kỷ dài trên Giang Sơn chúng ta. Gia Long đã vô hình chung tự « rước voi về dày mả tổ » như Trần Ích Tắc đời Trần xưa kia. Nếu như ngày xưa đó Gia Long biết tự lực và tự cường mà lo cấu kết với nhân tâm hầu chống lại Tây Sơn, thì nay bộ mặt Nước Việt Nam chúng ta đã đổi khác nhiều lắm! Cũng thế, nhìn lại mấy chục năm qua thì ông Hồ Chí Minh chỉ biết cậy dựa vào Nga cộng, Tàu cộng và làm theo lệnh quan thầy, để rồi rước cái đại họa cộng sãn vào cho Đất Nước, và nó còn kéo dài mãi cho Dân Tộc chúng ta đến ngày hôm nay. 

Bởi thế, lãnh đạo mà không biết tự lực hầu tạo cho mình cái thế vững, cứ trông ngóng và ỷ lại vào người, thì lại nguy hiểm không kém gì Quốc Gia không biết tự cường. Do đó, chúng tôi nghĩ các Đoàn Thể, Hội Đoàn và Đảng Phái chính trị mà không tạo cho mình một thế đứng, tạo cho mình được tiếng nói có người nghe, hay tạo cho mình uy thế - cứ ỷ lại trông chớ vào Mỹ, Pháp, Liên Hiệp Âu Châu vv., giúp cho hoặc « bật đèn xanh » cho chúng ta, thì cũng sẽ bất ứng như vậy thôi. Chúng ta ôn lại bài học Miền Nam : ông Thiệu và các cố vấn thân cận ông qúa ỷ lại và trông chờ vào sự giúp đỡ các nguồn viện trợ vũ khí cũng như tài chánh và kinh tế … Sự kém trí và tối dạ chính trị của ông Thiệu và các cố vấn của ông như Hoàng Đức Nhã, Nguyển Tiến Hưng đặt trọn tin tưởng vào sự hứa « lèo » qua các lá thư của tay đại bịp Nixon sẽ giúp Miền Nam đến cùng, không bỏ rơi ông và Miền Nam. Cái khờ và lãnh đạo tồi của ông Thiệu và đám thân cận ông ở chỗ này : không biết lo tự lực, tự cường cho mình, cho Quốc Gia đánh cộng, diệt cộng, lại còn tham nhũng, ăn hối lộ, vơ vét tiền và tài sản của Nước Nhà, đào ngũ, chạy trốn khi Miền Nam đang dầu sôi, lửa bỏng một mất một còn với Hà Nội. 

Từ ý nghĩa chúng tôi nói đây, là các đoàn thể tôn giáo, hội đoàn hay đảng phái chính trị của chúng ta hôm nay, chẳng biết tự lực, tự cường cùng tự quyết (hoạch định các chính sách, chủ trương của mình), thì tất dễ tan rã, phân hóa, bị người giật dây chỉ huy, chi phối không còn tính cách độc lập, song chỉ còn là một công cụ của người xử dụng mà thôi. Đây là bài học các đòan thể tôn giáo ta trước năm 1975, và sau 1975 cũng thế, như Công Giáo yêu Nước, Phật Giáo yêu Nước, mà người dân gọi là Quốc Doanh. Bất cứ Đảng Phái hoặc Tổ Chức, Mặt Trận Chính Trị nào mà chẳng tự lực nỗi mình, hoặc chẳng tạo cho mình một thế đứng uy tín, lại không được hậu thuẫn quần chúng tán trợ, thì tất chẳng được bền lâu. 

Chúng ta xem cái gương của các Nước Anh, Pháp, Đức, Nhật , các Nước này trong thời Đê Nhị Thế Chiến đã bị tàn phá nặng nề, như Đức và Nhật nhiều thành phố hầu như hoang tàn. Thế nhưng, các Nước này nhờ vào các vị lãnh đạo giỏi, với một lòng yêu Nước nồng nàn như Winston Churchill, Charles De Gaulle, Konrad Adenauer, hợp cùng với dân chúng họ, họ biết tự cường, tự lực sức mình, nên sau bao năm xây dựng và tái thiết, thì Pháp và Anh đã trở thành một trong năm cường quốc mạnh về vũ khí nguyên tử, cũng như họ tạo cho mình được một quân lực hùng mạnh làm cho thế giới phải kính nể. Còn Đức và Nhật, thì trở thành một trong mười cường quốc giàu mạnh về kinh tế cùng khoa học kỹ thuật. Do thế, chúng tôi nghĩ một Chánh Phủ biết tự quyết lấy vận mạng mình cũng như vận mạng Quốc Gia, mà lo tự cường cho Đất Nước, biết lo cho dân được giàu có, sung túc và an thái, thương dân, nghĩ đến dân truớc hết, thì người dân sẽ hết lòng vì họ và Dân Tộc. Và Chánh Phủ không vì cá nhân, gia đình, bè phái, tham nhũng .. không tham sân, si, dục… Song họ chỉ tâm niệm một lòng cấu kết lấy dân tâm để giữ gìn Đất Nước và tạo lực tự cường cho Quốc Gia, thử hỏi làm sao Mỹ, Pháp, Nga, Trung Cộng vv., lung lạc được ta, chè ép được chúng ta ? 

Vì là chuyện đại trọng và sự sinh tồn cho Đất Nước, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta (các vị lãnh đạo) phải cố công nắm cho được nhân hòa là có lực mạnh rồi, thì chẳng cần trông cậy vào một ai cả! Xin hãy tự lực cho mình trước đi, chớ bao giờ trông cậy và ỷ lại vào ai cả (Mỹ, Pháp, Trung Cộng vv.). Bởi cái thân làm « tầm gửi, nô bộc, tay sai » không ra thể thống gì! Chúng ta phải biết đó mà phòng thân, lo xa cho Quốc Gia, Dân Tộc mình. 


VIII. ĐỂ KẾT LUẬN 


Thưa qúy vị, 

Cái Thuật Trị Quốc và Giữ Nước đòi hỏi ở người lãnh dạo, là ngưởi cầm lái vận mạng Quốc Gia, Dân Tộc, cần có một trí sáng suốt, một đức độ và tài năng hơn người, một kiến thức uyên bác, để có thể khôn ngoan biết áp dụng các chính sách như « Diệt Thượng, Trị Hạ, Khoan Mãnh Tương Tế, chính sách Trọng Dân, An Dân, Dụng Nhân, Cầu Hiền tài, chính sách Tự Lực, Tự Cường và Tự Quyết » mới hy vọng Đất Nước được bình an, người dân an lạc hạnh phúc, Quốc Gia giàu có hùng cường. Một người lãnh đạo giỏi, là người biết tùy thời, tùy cơ mà áp dụng các chính sách nói trên cho hiệu qủa, hầu đưa đẩy Quốc Gia, Dân Tộc thăng tiến. 

Nhà lãnh đạo và chính trị giỏi, khôn ngoan, là nên biết nương thế vào nhân dân mà an trị. Thế nương nhân dân, nghĩa là tỏ lòng nể trọng người dân, giúp đỡ người dân khi họ túng thiếu, và bảo vệ nhân dân như tài sản, của cải cùng sự sống của họ. 

Thêm nữa, Thuật Trị Quốc và Giữ Nước, cũng đòi hỏi người lãnh đạo khôn ngoan, biết nương thế mà vươn lên. Nên tránh cho mình cùng Quốc Gia cái hiểm họa bị xâm lấn hoặc đè bẹp. Nhà lãnh đạo tài ba, khôn ngoan, thì tạo cho Đất Nước một thế liên kết đồng minh, để nhờ vào các Nước mạnh hay nhiều Nước giúp mình, hầu tránh cho Đất Nước cái hiểm họa bị các Nước khác ăn hiếp. Điển hinh là Trung Cộng, Đài Loan, Phi Luật Tân, ngang nhiên đi chiếm các đảo trong Quần Đảo Trường Sa và Hoàng Sa của ta, rồi đưa quân đội ra đó, tuyên bố chủ quyên là đảo của họ. 

Chúng ta thấy ngày nay như các Nước Đông Âu : Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, Bun Ga Ri, Slovanie vv. cùng Nhiều Nước nhỏ cựu Liên Sô và Đông Âu, gia nhập vào Cộng Đồng Âu Châu hay Khối Nato, để nương thế nhau mà sống, mà sinh tồn. Nhìn lại chúng ta, thì có Khối Đông Nam Á truớc đây đã liên kết với nhau, nương thế nhau để tránh cái hiểm họa cộng sản nhuốm đỏ. Ngày nay, thì một Trung Cộng ỷ thế mạnh, nuôi mộng bá quyền làm Bá Chủ Á Châu, họ ngang nhiên cướp Trường Sa cùng Hoàng Sa của ta. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải khôn ngoan dựa vào cái thế liên kết và nương thế này, hầu tránh cho Đất Nước khỏi bị Tàu cộng lấn át, xâm lấn thêm bờ cỏi. Chúng ta nên nhớ nắm lòng liên kết và nương thế sức mạnh của người khác (Mỹ, Pháp, Liên Hiệp Âu Châu, Nhật, Ấn Độ) để khống chế lại họ. Chớ không phải thần phục và qụy lụy như Hà Nội đối với Bắc Kinh hiện nay, để cho bọn Hán cư ngang nhiên, ngang tàng dành biển, cướp dất của ta. Qủa thực cách thế hành động hèn nhát, khiếp sợ như Hà Nội hiện nay, chỉ làm nhục cho vong linh Tiên Tổ có công dựng Nước, bảo vệ Nước, và đánh đuổi quân giặc xâm lăng Tàu và Pháp ra khỏi bờ cỏi Đất Nước chúng ta. 

Chúng tôi uớc gì những giòng suy tư đưa ra về Sách Thuật Trị Quốc và Giữ Nước này, sẽ giúp cho qúy vị hiểu rõ tầm đại trọng của nó về các chính sách có lợi cho Nước, ích cho Dân mà chúng tôi đã cố gắng khảo cứu học hỏi, và rút ra những kinh nghiệm đau thương của Lịch Sử Việt Nam, mà cố gắng luận qua. Chúng tôi mong rằng chớ gì các nhà lãnh đạo, các vị làm chính trị, cầm quyền trị Quốc, hiểu được những ích lợi của các chính sách chúng tôi đã luận đây, áp dụng cho Dân Tộc được nhờ, cho Nước Nhà được cất cánh bay cao trên con đường dân chủ, thịnh vượng và hùng mạnh. Đó là tâm nguyện và tâm vọng cùng lòng gắn bó của chúng tôi đối với Quê Hương cùng Đất Nước Việt muôn đời kính yêu! 


Nam Giao Lê Thiện Bình 



NHỮNG SÁCH BÁO THAM KHẢO 


- Mộng Bình Sơn :« Ôn Cố Trí Tân », Nhà Xuất Bản Bùi Viện, Sài Gòn 1974. 

- Mộng Bình Sơn :« Đông Châu Liệt Quốc », Nhà Xuất Bản Zieleks, Houston 1978. 

- Nguyễn Duy Hinh :« Binh Thư Tôn Tử », Nhà Xuất Bản Văn Hữu, Sài Gòn 1973. 

- Nghiêm Xuân Hồng :« Từ Binh Pháp Tôn Ngô Đến Chiến Lược Nguyên Tử », Nhà Xuất Bản Quan Điểm, Sài Gòn 1966. 

- Viện Sử Học :« Binh Thư Yều Lược, Hổ Tướng Khu Cơ », Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1977. 

- Thanh Lan & Võ Ngọc Thanh :« Nhân Vật Đông Châu, Chính Trị Đạo Đức Cổ Nhân », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Thanh Niên Xuất Bản, Sài Gòn 1968. 

- Ngô Tỵ :« Mưu Lược Chính Trị Đông Phương », Nhà Xuất Bản Sống Mới, Sài Gòn 1972. 

- Mã Nguyên Lương & Lê Xuân Mai :« Khổng Minh », Nhà Xuất Bản Khai Trí, Sài Gòn 1968. 

- Nguyễn Hiến Lê :« Chiến Quốc Sách », Nhà Xuất Bản Lá Bối, Sài Gòn 1973. 

- Nguyễn Tứ Qúy :« Chính Trị Cổ Nhân », Nhà Xuất Bản Khai Trí, Sài Gòn 1965. 

- Nguyễn Văn Ngọc & Tử An Trần Lê Nhân :« Cổ Học Tinh Hoa »,Nhà Xuất Bản Thọ Xuân, Sài Gòn 1962. 

- Phạm Tất Đắc Biên Dịch :« Học Thuyết, Tư Tưởng, Đường Lối Chính Trị Của Quản Tử Tức Quản Di Ngô Hay Quản Trọng », Việt Nam Quốc Học Tùng Thư Xuất Bản, Sài Gòn 1960. 

- Nguyễn Văn Thọ :« Khổng Học Tinh Hoa », Nhà Xuất Bản Khai Trí, Sài Gòn 1970. 

- Khổng Tử :« Xuân Thu Tập Truyện », Dịch Giả Hoàng Khôi, Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản , Sài Gòn 1969. 

- Khổng Tử :« Tứ Thư Luận Ngữ », Dịch Giả Đoàn Trung Côn, Trí Đức Tòng Thơ Xuất Bản, Sài Gòn 1950. 

- Mạnh Tử :« Mạnh Tử Chu Hy Tập », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Xuất Bản, Sài Gòn 1968. 

- Mạnh Tử :« Tứ Thu Hà », Bộ Văn Hóa Giáo Dục Xuất Bản, Sài Gòn 1968. 

- Nguyễn Cả & Lê Sơn Cương :« Nghệ Thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy », Nhà Xuất Bản Khai Trí 1972. 

- Hoàng Văn Lạc & Hà Lạc Việt :« Nam Việt Nam 1954-1975 Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới », Xuất Bản Mỹ Quốc 1990. 

- Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter :« Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập », Ed. Happer & Row, New York 1986. 

- Nguyễn Tiến Hưng :« Khi Đồng Minh Tháo Chạy », Nhà Xuất Bản Hứa Chấn Minh, San Jose 2005. 

- Lưu Kiệt & Phong Đảo, Biên Khảo và Dịch Thuật : « Những Mẫu Chuyện Lịch Sử Nỗi Tiếng Trung Quốc 10 Đại Thừa Tướng Trung Quốc », Nhà Xuất Bản Thanh Niên, Sài Gòn 2002. 

- Vũ Đại Quang & Bùi Hữu Hồng, Biên Soạn và Dịch Thuật :« 100 Nhân Vật Ảnh Huởng Lịch Sử Trung Quốc », Nhà Xuất Bản Trẻ, Sài Gòn 2001. 

- Lê Trọng Quát :« Việt Nam Đi Về Đâu? Huyền Thoại Và Sự Thật », Văn Nghệ Xuất Bản, San Jose 2003. 

- Cao Thế Dung & Lương Khải Minh :« Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống », Đông Phương Tái Bản, Sài Gòn 1970. 

- Nguyễn Văn Minh :« Dòng Họ Ngô Đình Uớc Mơ Chưa Đạt », Hoàng Nguyên Xuất Bản, California 2005. 

- Nguyễn Hữu Duệ :« Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, Tác Giả Tự Xuất Bản, San Diego 2003. 

- Minh Võ : « Ngô Đinh Diệm Lời Khen Tiếng Chê », Thông Vũ Xuất Bản, California 1998. 

- Trần Trung Quân :« Lái Buôn Tổng Thống, Tình Báo Chiến Lược Hà Nội Tại Dinh Độc Lập », Nhà Xuất Bản Nam Á, Paris 1990. 

- Lý Tòng Bá :« Hồi Ký 25 Khói Lửa » Tác Giả Tự Xuất Bản, California 1996. 

- Liêm Anh :« Bảy Viễn Một Đời Ngang Dọc », Nhà Xuất Bản Nguồn Việt Tái Bản, Đức Quốc… ? 

- Hoàng Quốc Kỳ. « Ma Đầu Hồ Chí Minh », Mặt Trận Quốc Dân Xuất Bản, Úc Đại Lợi 1995. 

- Trần Khải Thanh Thủy :« Hồ Chí Minh Nhân Vật Trăm Tên - Nghin Mặt », Nhà Xuất Bản Tân Văn, Đông Kinh-Nhật Bản 2008. 

- Gert Buchheit :« Hitler Chef De Guerre », Ed. Walter Beckers, Bruxelles 1999. 

- Những Bài Báo Trong Tập Sách Nhỏ Về « Lễ Giỗ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm 1963-2004 » Mỹ Quốc 2004. 

- Minh Võ :« Cái Chết Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ». Báo Người Việt ngày 28.10.2004. 



(hết)
Nam Giao Lê Thiện Bình
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN

0 nhận xét:

Đăng nhận xét