Nhận định tổng kết
về tình hình Việt Nam năm 2012
Kính gửi:
‒ Toàn thể đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
‒ Các chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền và cộng đồng thế
giới tự do.
Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là
lên tiếng để xây dựng đất nước và canh tân xã hội. Vì thế, trước khi kết thúc năm
2012, một năm có nhiều biến động lớn lao trên nhiều mặt của quốc gia, Khối 8406 chúng tôi có những nhận
định sau đây về tình hình xã hội và đất nước:
1- Về mặt chính trị, đảng Cộng sản
Việt Nam ngày càng ra sức củng cố ách độc tài độc đảng để bám lấy quyền lực, dù
mất hết uy tín trước nhân dân. Đang
khi thế giới càng lúc càng đi vào xu hướng toàn cầu hóa về dân chủ, đặc biệt
qua các cuộc cách mạng chống độc tài tại Trung Đông và Bắc Phi năm rồi, qua sự
chuyển dần từng bước theo con đường dân chủ của Myanmar và qua cuộc chiến ác
liệt chống chế độ bạo tàn tại Syria hiện nay; đang khi nhân dân trong nước càng
lúc càng đấu tranh mạnh mẽ để đòi hỏi quyền tự do của con người, quyền tự quyết
của dân tộc, quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, đặc biệt qua nhiều trang
mạng và trang blog “lề dân”, qua nhiều văn bản tập thể của giới trí thức, giới
thanh niên và giới đối kháng, qua nhiều cuộc xuống đường biểu tình yêu nước;
thì bất chấp lòng dân và xu hướng thời đại, đảng CSVN ngày càng ra sức siết
chặt ách độc tài đảng trị, ngày càng tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt tất cả
những ai phản đối lối hành động, phê phán kiểu cai trị và chất vấn quyền lãnh
đạo tuyệt đối lẫn toàn diện của đảng. Cụ thể là qua Tuyên bố của Hội nghị lần 6
của Ban Chấp hành Trung ương hồi tháng 10, qua kế hoạch sửa đổi Hiến pháp năm
1992 trong đó điều 4 được đảng khư khư giữ lại, qua tuyên bố mới đây của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng nhất quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối
lập và qua chủ trương thường hằng là dùng công an, quân đội, kể cả các tổ chức
đoàn thể của nhà nước làm công cụ đàn áp nhân dân. Tất cả các động thái đó
chứng tỏ đảng CSVN muốn thống trị đất nước vô thời hạn dù vô tài, bất lực, mất
uy tín, và cho thấy việc kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiến pháp trong những
ngày sắp tới chỉ là trò khôi hài và lừa bịp.
2- Về mặt kinh tế, đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì
khẳng định kinh tế nhà nước là chủ đạo và các công ty tập đoàn nhà nước là ưu
tiên. Cho đến nay, đường lối kinh tế ấy đã dẫn
tới tình trạng tổng sản lượng nội địa (GDP) ngày càng đi xuống, các tổng công
ty, đại tập đoàn quốc doanh thi nhau vỡ nợ, nhiều ngân hàng liên tiếp suy sụp,
đồng tiền từ từ mất giá, thị trường bất động sản càng lúc càng đóng băng, hàng
trăm ngàn công ty và doanh nghiệp tư nhân phải giải thể. Lý do là đảng viên,
nhất là cán bộ cấp cao, đã tung rất nhiều tiền (do tham nhũng mà có) để mở công
ty sân sau, mua đất đai nhà cửa, đầu cơ vào chứng khoán, bất động sản; làm kinh
tế chỉ lo trục lợi cho mình chứ không phải phục vụ đồng bào xã hội, và lợi dụng
quyền lực lẫn sự ưu ái của đảng để giết chết các công ty vừa và nhỏ do tư nhân
làm chủ. Tất cả đã khiến nền kinh tế thị trường gọi là “theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” ngày càng đẩy tuyệt đại đa số nhân dân vào cảnh khốn cùng. Dù vậy,
sau Hội nghị Trung ương 6, đảng tiếp tục duy trì chính sách kinh tế bất công và
sai lạc đó, kèm theo việc ra nghị định về vàng và đôla, nhằm giúp các công ty
của đảng viên bù lỗ trả nợ và tạo điều kiện cho các đảng viên tiếp tục vơ vét
làm giàu, bất chấp dân tình điêu linh khốn khổ, ngõ hầu đảng tiếp tục nắm giữ
quyền lực. Ngoài ra, dẫu đã làm cho nền kinh tế Việt Nam suy thoái, trì trệ
suốt bao năm qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ chịu trách nhiệm “chính trị”
trước đảng thay vì trách nhiệm hành chính (thậm chí hình sự) trước quốc dân.
3- Về mặt pháp chế, đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục coi các bộ luật và toàn thể hệ thống tòa án là công cụ bảo vệ
quyền lực độc đoán của mình hơn là bảo vệ công lý và sự thật. Nhiều bản văn pháp luật (liên quan đến tôn giáo, báo chí,
đất đai, biểu tình…) được đưa ra hay tu chính chẳng hề nhắm đến quyền lợi chính
đáng của công dân, mà chỉ để củng cố quyền uy của đảng. Công an điều tra, viện
kiểm sát công tố, chánh thẩm và bồi thẩm vẫn nhất nhất tuân lệnh đảng, vẫn
không ngừng câu kết với nhau, đặc biệt trong các phiên tòa chính trị, để trừng
phạt các công dân dám lên tiếng phản đối bất công bạo hành của người nhà nước,
đòi lại các quyền lợi như đất đai, nhà cửa bị cán bộ đảng viên cướp đoạt, đấu
tranh cho các quyền tự do tôn giáo, bầu cử, ngôn luận, lập hội…, chống lại
ngoại bang xâm lấn bằng biểu tình, viết bài, sáng tác nhạc, rải truyền đơn….
Các luật sư tiếp tục bị ngăn cản tác nghiệp từ nghiên cứu hồ sơ đến biện hộ
trước tòa, các bị cáo tiếp tục bị tước các quyền cơ bản như hỗ trợ tâm lý, cố
vấn pháp luật, bào chữa bản thân, các thân nhân bằng hữu của họ bị cấm tham dự
phiên tòa, thậm chí bị hành hung lăng nhục. Bằng chứng là các phiên tòa xử 4
sinh viên tại Nghệ An, 3 thành viên Câu lạc bộ Nhà báo tự do và 2 nhạc sĩ yêu
nước tại Sài Gòn vừa qua. Nhiều tù nhân lương tâm tiếp tục bị hành xử khắc
nghiệt (cưỡng bức tâm lý, tra khảo đánh đập, không chăm sóc y tế đầy đủ…) hòng
buộc họ phải nhận tội, hầu lường gạt công luận rằng luật pháp và án xử nhà nước
là chính đáng, như trong trường hợp bà Mai Thị Dung, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, anh
Đoàn Huy Chương…
4- Về mặt dân sinh, đảng Cộng sản Việt
Nam
không từ bỏ chính sách “đất đai thuộc về toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu”. Từ
hơn 20 năm qua, chủ trương bất công trắng trợn và hết sức phi lý này, quan niệm
hư ảo và lừa bịp này -được dùng làm cốt tủy cho Luật đất đai- đã tước bỏ quyền
tư hữu ruộng đất mà lịch sử và nhân loại hàng nghìn năm nay xác nhận là chính
đáng. Chính sách đó đã mở đường cho các quan chức, cán bộ, đảng viên địa phương
cướp trắng gia sản tổ tiên, công sức xương máu của hàng chục triệu nông dân và
thị dân qua chiêu bài “quy hoạch phát triển”. Nó đã đẩy hàng triệu gia đình vào
đường cùng, lâm cảnh vô nghề vô nghiệp, dở sống dở chết. Nó khiến nhân dân lo
âu hồi hộp tại nơi đang sống, và nông dân không chí thú làm ăn, chẳng buồn làm
cho đất đai thêm màu mỡ. Hội nghị Trung ương 6 và Dự thảo Luật đất đai sửa đổi
vẫn ngoan cố bám giữ chính sách sai lầm đó và duy trì tình trạng thê thảm này
của dân oan.
Ngoài ra, việc trung ương đảng quyết
tâm đeo đuổi dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên dù rõ ràng có nguy cơ cho
quốc phòng an ninh lẫn tàn phá môi trường, quyết tâm xây dựng nhà máy điện
nguyên tử tại Ninh Thuận, dù rõ ràng có nguy cơ làm suy kiệt công khố và gây
thảm họa hạt nhân, cũng như việc nhiều địa phương, đặc biệt tại miền Trung, xây
dựng các đập thủy điện cách bừa bãi, ẩu tả (như tại Sông Tranh 2, Dak Rông, Dak
Mek) và quản lý các đập thủy điện cách vô trách nhiệm (gây lũ lụt lẫn hạn hán),
tất cả những sự kiện ấy đó đã làm cho dân sinh ngày càng đầy lo âu và khốn khổ.
5- Về mặt tôn giáo, đảng Cộng sản Việt
Nam trước sau như một, vẫn nuôi ý đồ biến các Giáo hội thành công cụ phục vụ
chế độ. Sau bao nhiêu năm thất bại trong việc tiêu
diệt tôn giáo bằng bạo lực vũ khí, Cộng sản đã chuyển sang phương pháp bạo lực
hành chánh bằng Pháp lệnh tôn giáo tín ngưỡng năm 2004. Để lừa gạt công luận
trong và ngoài nước, CS chỉ thí ban các thứ tự do tôn giáo phụ tùy như tổ chức
lễ hội, xây dựng điện thờ, cho chức sắc ra ngoại quốc (nhưng chỉ đối với những
ai và những nơi không có vấn đề với chế độ). Còn những thứ tự do tôn giáo chủ
yếu và đích thật như quyền có quy chế pháp nhân, quyền độc lập trong tổ chức,
tự do trong sinh hoạt, quyền rao giảng giáo lý cho quần chúng và tham gia việc
giáo dục giới trẻ thì không có trên lý thuyết lẫn thực tế. Trên lý thuyết, nhà
cầm quyền CS vừa ban hành Nghị định 92 thay thế Nghị định 22 năm 2005 để áp
dụng Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo. Chi tiết hơn, thâm độc hơn, Nghị định 92
này như một sợi dây thòng lọng ngày càng siết cổ tôn giáo để biến các Giáo hội
hoặc thành những cơ thể thiếu máu hoặc thành những công cụ ngoan ngoãn. Trong
thực tế, các cuộc đàn áp vẫn tiếp tục xảy ra cho mọi Giáo hội. Công giáo thì
tại Kontum, Thanh Hóa và Nghệ An, nơi có những nhà thờ bị chiếm đoạt, bị phá
hoại, những nghĩa trang bị xúc phạm, những linh mục bị hành hung, những giáo
dân bị cầm tù. Phật giáo Hòa Hảo thì nhiều tín đồ bị cầm tù oan ức hay bị hành
hạ trong ngục, giáo lý và giáo chủ bị lăng nhục phỉ báng. Phật giáo Thống Nhất
thì nhiều chùa chiền bị cấm cửa đối với tín đồ, bị đe dọa xóa bỏ, nhiều tăng sĩ
bị quản chế, bị cản trở tu trì, hoằng pháp hay hành thiện, nhiều lễ hội bị gây
rối, cản trở. Tin Lành thì nhiều mục sư và tín đồ bị cầm tù, nhiều Hội thánh bị
sách nhiễu cấm cản trong sinh hoạt v.v…
6- Về mặt đối ngoại, đảng Cộng sản
Việt Nam càng lúc càng lộ nguyên hình là tay sai của đảng Cộng sản Trung Quốc
và là “thái thú” của chúng trên đất Việt. Vốn đã lệ thuộc Tàu cộng một cách chặt chẽ
từ thời Hồ Chí Minh, tái lệ thuộc một cách ô nhục thời Đỗ Mười (hội nghị Thành
Đô 1990), nay đảng CSVN ngày càng lệ thuộc Tàu cộng kiểu sinh tử qua những
nhượng bộ trong việc ký kết các hiệp định về lãnh thổ và lãnh hải, qua những
yếu hèn trong việc để cho Tàu cộng xâm nhập nội bộ, chính trị, lãnh thổ, văn
hóa, thương mại, qua những suy sụp về kinh tế tài chánh do điều hành đất nước
cách ngu xuẩn và tham tàn đến độ phải nhờ Tàu cộng ra tay cứu trợ. Từ mấy năm
nay, sự lệ thuộc kiểu chủ tớ đó ngày rõ nét qua sự kiện đảng luôn mồm tụng niệm
“l6 chữ vàng”, “4 chữ tốt”, luôn thay nhau qua Bắc Kinh để triều kiến, nhận chỉ
thị, luôn ra lệnh cho các bộ, các cơ quan nhà nước giao lưu, hợp tác toàn diện
với Trung Quốc; qua việc đảng luôn bỏ mặc nhân dân trên đất liền bị xua đuổi
khỏi những vùng đất nhượng cho Trung Quốc (rừng phòng hộ biên giới phía Bắc,
khu khai thác bauxite Tây Nguyên, phố Tàu Bình Dương, Hà Tĩnh, hải cảng Vũng
Áng…), hoặc bỏ mặc ngư dân trên biển cả cho tàu dân sự lẫn tàu quân sự của
Trung Quốc cấm cản, cướp bóc, bắn giết; qua sự kiện đảng hạn chế hoặc cấm tiệt
việc nghiên cứu và phổ biến về chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa, việc tưởng niệm
các chiến sĩ bỏ mình khi bảo vệ biên giới và hải đảo, việc xuống đường biểu
tình, sáng tác ca khúc hay rải truyền đơn viết biểu ngữ của nhân dân cả nước
chống quân xâm lược. Gần đây hơn là việc đảng tăng cường các loa miệng và loa
đài nhằm “giáo dục” nhân dân về “lòng biết ơn, tình hữu nghị” đối với Trung
Quốc và nhằm ru ngủ nhân dân hãy “để đảng và nhà nước lo chuyện bang giao” với
cái nước lớn luôn nuôi mộng thôn tính VN này.
Đàng khác, cũng trên mặt đối ngoại,
đảng CSVN đang tăng cường việc gởi viên chức ra nước ngoài, đến các cộng đồng người
Việt tỵ nạn khắp thế giới, một đàng để chiêu dụ đầu tư vào nước, kêu mời đóng
góp xây dựng quê hương (thực chất là để cứu nguy chế độ đang cạn kiệt tiền
bạc), một đàng để “đối thoại” với các cá nhân và tổ chức tranh đấu, hứa hẹn cho
“tham gia” vào Quốc hội, tìm “con đường hòa giải hòa hợp” (thực chất là để
triệt tiêu tinh thần chống độc tài toàn trị Cộng sản, lũng đoạn phân hóa các
lực lượng dân chủ hải ngoại).
Tóm tắt lại, ĐCSVN đã mất uy tín rất trầm trọng, đang
lâm vào một cuộc khủng hoảng nội bộ sâu sắc. Một là do bế tắc về
đường lối: bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin thì sợ, giữ nóthì ngày càng lố
bịch khôi
hài, bỏ tư tưởng HCM thì chẳng còn chỗ dựa
tinh thần để lừa bịp, ru ngủ quần chúng nữa; hai là do sự tha hóa trầm trọng, nạn tham nhũng
tràn lan của cán bộtừ thấp
lên cao; ba là do sự đấu đá
nội bộ, bè phái xâu xé nhau từ thượng tầng đến cơ sở.
Cho nên để cứu đảng chỉ còn 3 cách. Một là tăng cường
đàn áp rất dã man, rất côn đồ; từ trước đến nay chưa hề có những hành động
man rợ và độc ác như vậy, các bản án
bây giờ hết sức nặng cốt để đe dọa quần
chúng và giam chân những chiến sĩ dân chủ có khả năng lãnh đạo phong trào; hai là tìm cách luật hóa hết sức có thể vai trò lãnh đạo độc nhất
và các đường lối cai trị độc tài của đảng trên các phương diện chính trị, kinh
tế, dân sinh, tôn giáo, xã hội… ngõ hầu nhân dân không thể chống lại mà không
phạm pháp; ba là ra sức lừa
bịp dân chúng và quốc tế bằng đủ trò gian trá mỵ dân và
bằng đủ mọi phương tiện. Nhưng việc lừa bịp này càng ngày càng khó, vì thế giới
hôm nay khác hẳn rồi, internet hiện giúp cho phe dân chủ dễ vạch trần âm mưu
phỉnh phờ của Cộng sản!
Từ những nhận định trên, Khối 8406 chúng
tôi tuyên bố:
1- Kiên định đường lối của Tuyên ngôn
Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006: giải thể chế độc độc tài độc đảng để xây dựng
chế độ đa nguyên đa đảng, dân chủ tự do.
2- Phản đối nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy công ty quốc doanh làm chủ đạo, vì đó chỉ
là cách đảng và đảng viên làm giàu trên sự bóc lột nhân dân và tàn phá đất nước.
3- Lên án những bộ luật và những phiên
tòa trong đó đảng chà đạp các nhân quyền chủ yếu, các tự do cơ bản của con
người, trấn áp những công dân chân thành yêu nước và thực tâm xây dựng.
4- Kêu gọi đảng và nhà nước trả lại
quyền sở hữu đất đai cho các tập thể và tư nhân cũng như từ bỏ những dự án khai
thác bauxite và xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầy hiểm họa cho dân sinh.
5- Yêu cầu đảng và nhà nước tôn trọng
tự do tôn giáo dưới mọi hình thức, để cho các Giáo hội được góp phần giáo dục
lương tâm, giải độc văn hóa, tăng cường đạo đức xã hội để canh tân Đất nước.
6- Đòi hỏi đảng và nhà nước bảo vệ chủ
quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ một cách đích thực, cương quyết, can đảm
và hữu hiệu, trong sự chung vai sát cánh và đồng tâm hiệp lực với toàn thể nhân
dân.
7- Chỉ chấp nhận đối thoại với đảng CS
khi nào đảng từ bỏ độc quyền cai trị, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, sám
hối trước quốc dân về những sai lầm và tội ác quá khứ, khôi phục các quyền tự
do cho công dân và quyền tự quyết cho Dân tộc.
Làm tại Việt Nam ngày 31 tháng 12 năm
2012.
Ban điều hành Khối 8406:
1- Linh mục Phan Văn
Lợi – Huế – Việt Nam.
2- Kỹ sư Đỗ Nam Hải –
Sài Gòn – Việt Nam.
3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa Kỳ.
Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn
Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân
chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù Cộng sản.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét