Chắc hẳn không có đồng tiền nào trên thế giới lại
“đặc biệt” như đồng đô-la Mỹ, “đặc biệt” không chỉ là tỷ giá đồng tiền đứng hàng
thứ ba (sau đồng Bảng Anh và Euro) trên thế giới, mà đặc biệt vì trên đồng
đô-la Mỹ có ghi câu: In God we trust
(Chúng ta tin vào Thượng Đế, chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa, chúng con tin
Chúa), cũng tương tự câu: Jesus, I trust
in You (Lạy Chúa Giêsu, con tin Ngài; lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài)
mà ngày nay rất phổ biến trong việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót.
Cả đời Chúa Giêsu thực hành yêu thương và dạy người ta yêu
thương, vì Ngài mệnh danh là Tình Yêu (x. 1 Ga 4:8 & 16). Ngài gọi “luật
yêu thương” là điều răn mới: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13:34).
Chia tay luôn là điều buồn, thậm chí là rất đau khổ. Ai
trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần phải chia tay: Xa cha mẹ, xa con cái, xa
người thân, xa người yêu, xa bạn thân, và nhất là bị phụ tình. Nhưng xa như vậy vẫn có thể còn gặp lại, có bị phụ tình
thì vẫn có dịp gặp tình mới. Xa mà không thể gặp lại được chính là cái chết, lúc đó chúng ta còn đau khổ hơn
rất nhiều. Ai đã từng mất cha mẹ, anh chị em, đặc biệt là mất mẹ, thì sẽ cảm
thấy khoảng trống vô hạn tưởng chừng không gì khỏa lấp nổi. Những lúc đó trái
tim nhói đau lắm. Tuy nhiên, vẫn không “nhằm nhò” gì so với nỗi đau của Chúa
Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô biết mình sắp phải xa những người
thân thiết mà Ngài yêu thương hết lòng, đó là chúng ta. Có bản tính nhân loại,
Ngài cũng xúc động 2 lần khi thấy người ta thương tiếc Ladarô (x. Ga 11:3 &
38), có lúc Ngài rất đau buồn, đau buồn đến nỗi Ngài đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26:38).
Vâng, nỗi đau quá lớn! Và Ngài không muốn xa rời chúng ta một giây phút nào nên
Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể (x. Mt 26:26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:19-20;
1 Cr 11:23-25), chính là Bí tích Yêu Thương, để có thể ở với chúng ta mọi ngày
cho đến tận thế (x. Mt 28, 20). Chưa xa mà Chúa đã rất nhớ các môn đệ, Chúa đã
trút bầu tâm sự lần cuối bằng giọng buồn bã: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày
Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29).
Với người đời thì “xa mặt cách
lòng”. Chúa biết rõ nên Ngài “không dám” xa chúng ta, Ngài vẫn ở bên chúng ta,
vậy mà thoáng một cái thì chúng ta lại quên Ngài. Quá tệ! Chúng ta có thể dễ
“chê” ông Phêrô, ở bên Chúa hằng ngày mà vẫn… nhát đảm, chưa đánh đã khai! Với
bản tính chất phác, thật thà, có sao nói vậy, và lại nóng tính hơn cả Trương
Phi, chẳng thế mà khi thấy Thầy bị bắt, ông liền vung tay tuốt gươm ra, chém
phải tên đầy tớ của thượng tế làm nó đứt tai (x. Mt 26:51), nên ông hùng hồn quả
quyết chắc như đinh đóng cột: “Dầu tất cả
có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26:33).
Ông còn tái khẳng định: “Dầu có phải chết
với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26:35). Tất cả các môn đệ cũng đều
nói như vậy. Ấy thế mà chỉ là mấy đầy tớ gái trong đêm tối chợt nhận ra ông
trong số người đi theo Chúa Giêsu thì ông đã giật thót người và “vô tư” chối
Chúa đến 3 lần (x. Mt 26:69-75). Nếu là chúng ta chắc là còn tệ hơn, “giả nai”
và bỏ của chạy lấy người thôi!
Thánh Phêrô “đại diện” cho chúng ta trong việc… chối Chúa.
Chúa bị phụ tình. Tất nhiên Ngài đau lắm, Ngài đau không chỉ một lần mà đau
hàng tỷ lần vì nhân loại hằng ngày phụ
tình Ngài. Khi bằng an thì Thầy Thầy, con con – hy vọng có thể được hưởng
“ké” gì đó; khi Thầy bị bắt thì trò chạy mất dép, chối leo lẻo – vì quá thất
vọng, bị vỡ mộng, không còn “xơ múi” gì, vậy là… hết!.
Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu đã toát mồ hôi hột vì
quá run sợ và quá đau khổ nên Ngài đã phải hai lần thốt lên: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi
phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39),
và “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén
này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42). Nhưng Ngài
chấp nhận vì tuân phục, vui nhận chứ không miễn cưỡng, không phải là không nhận
cũng không được.
Nỗi đau này tiếp nỗi đau khác. Không
chỉ bị phụ tình mà Ngài còn bị lợi dụng khi Giuđa nhân danh điều tốt để làm
điều xấu: “Tôi hôn ai thì chính là người
đó. Các anh bắt lấy!” (Mt 26:48). Nụ hôn là biểu hiện yêu thương mà lại bị
biến thành dụng cụ phản trắc. Chúa Giêsu đã biết trước: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18). Ăn
cháo đá bát, lật lọng. Buồn vô hạn! Và một lần nữa, Ngài lại bị đau khổ đến tột
cùng! Chúng ta đừng vội trách ông Giuđa vì chúng ta cũng đã, đang và sẽ lợi
dụng lòng nhân hậu của Chúa, dám nhân danh lòng đạo đức mà cứ tưởng mình vì
Chúa, và dám nhân danh lòng tốt mà làm tổn hại người khác bằng nhiều cách.
Sau khi họ bắt trói Chúa đi, họ hành hạ và sỉ nhục Chúa
Giêsu đủ cách, họ còn khạc nhổ vào mặt Ngài và đấm đánh Ngài. Có kẻ lại tát
Ngài và nói: “Ông Kitô ơi, hãy nói tiên
tri cho chúng tôi nghe đi: Ai đánh ông đó?” (Mt 26:67-68). Nếu có ở đó,
chắc hẳn chúng ta cũng phải “nóng gáy” mà lầm bầm theo kiểu nói ngày nay: “Đồ đểu!”.
Tột đỉnh đau khổ, tột đỉnh nhục nhã, tột đỉnh cô đơn, vì
Chúa Giêsu không còn ai dám nhận mình là người quen, có người chỉ dám đứng xa
xa xem sao. Thế nên Chúa Giêsu lại thốt lên: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni – Lạy
Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:45). Máu ra nhiều, Ngài kêu khát
thì người ta lại nỡ lòng cho Ngài nếm giấm chua (x. Ga 19:28-29). Và thế là kết
thúc bản hùng ca Liên Khúc Khổ Đau, thế là hoàn tất!
Lòng Thương Xót Chúa quá kỳ lạ, quá cao vời, quá mầu nhiệm.
Ước gì mỗi người chúng ta khả dĩ cảm nhận Tình Yêu ấy như Chân phước Lm
Ludovico Casoria: “Tình yêu Chúa Kitô đã
chạm đến trái tim tôi” (Christ’s love has wounded my heart).
Người ta thường nói: “Yêu
là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Nhưng đó chỉ là nói…
cho vui. Thực tế có nhiều người “bị lỗ” liền tìm cách hại người không yêu mình,
thậm chí là giết chết người đó. Còn với Chúa thì không đùa giỡn, rất thật: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Thánh Phaolô kinh nghiệm đầy
mình: “Những gian nan thử thách Đức Kitô
còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể
Người là Hội Thánh” (Cl 1:24).
Yêu là phải khổ, như một quy luật tất yếu muôn thuở, không thể nói suông, bởi vì
“nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,
chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8).
Chắc hẳn nhiều người còn nhớ các vĩ nhân là chính trị gia
Mohandas Karamchand Gandhi và mục sư Martin Luther King.
Mohandas Karamchand Gandhi (2.10.1869 – 30.1.1948) được dân
Ấn Độ tôn vinh là thánh nhân, là người cha của dân tộc, vì ông đã hết lòng vì
nhân dân đến nỗi thân xác ông ốm o gầy mòn. Lúc 15 tuổi, ông thiếu tiền nên ăn
cắp chiếc đồng hồ vàng của người cha. Lương tâm ông không ngừng bị day dứt,
nhưng ông không dám nói thẳng với cha mà viết vào giấy rồi đưa cho cha. Ông
đứng run lẩy bẩy chờ hình phạt. Người cha xem giấy xong liền xé nát, rồi nói: “Thôi được, dù sao con cũng biết nhận lỗi”.
Sau đó, người cha ôm hôn đứa con thắm thiết.
Ông là người giải hòa giữa người Hindu và Hồi giáo. Phương
pháp hành động của ông là khuyến khích, phi
bạo lực và chân thật – gọi là
Satyagraha. Ông bị bắt nhiều lần ở Anh và Nam Phi vì hoạt động chính trị, giành
độc lập cho Ấn Độ năm 1947. Nhưng ngày 30.1.1948, một người Hindu cuồng tín là
Nathuram Godse đã đâm ông 3 nhát dao oan nghiệt khiến ông gục ngã. Trước khi
chết, ông còn thốt lên: “Chúa ơi! Chúa
ơi!” và xin tha thứ cho người sát hại mình. Ông thật xứng đáng được người
dân Ấn Độ tôn xưng là “Mahatma” (Tâm hồn Vĩ đại).
Martin Luther King (sinh 15-1-1929, mất 4-4-1968),
người Mỹ da đen, đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1964, khi ông mới 35 tuổi. Năm
1957, ông thành lập tổ chức Southern Christian Leadership Conference (Hội nghị
Lãnh đạo Kitô giáo Nam phương), lý tưởng của tổ chức này ông rút ra từ Kitô
giáo, cách hoạt động được áp dụng theo kiểu của Gandhi.
Trong những năm hoạt động từ 1957–1968, ông đi nhiều nơi và
viết nhiều sách báo để bảo vệ công lý. Ông hướng dẫn 250.000 người biểu tình ở Washington , D.C. ,
và hô to khẩu hiệu: “Tôi có Mơ ước”
(I Have a Dream). Ông hoạt động chống kỳ thị chủng tộc nên bị bắt 20 lần và bị
tấn công 4 lần, được tạp chí Time bình chọn là Nhân vật của năm 1963. Ông không
chỉ là biểu tượng lãnh đạo của người Mỹ da đen mà còn là nhân vật của thế giới.
Ông bị ám sát ngày 4-4-1968 tại phòng khách sạn ở Memphis , Tennessee ,
còn nhà ông bị bỏ bom.
Thánh linh mục Maximilien Kolbe đã bằng lòng chết thay cho
một người bạn tử tù, chân phước Gioan-Phaolô II đã đích thân đến tận nhà tù để
tha thứ cho chính kẻ đã ám sát ngài. Và còn nhiều những tâm hồn cao thượng chứa
đầy tình yêu thương như vậy. Đó là những chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa –
hôm qua, hôm nay, và mãi mãi…
Những con người như vậy đều có lý tưởng sống cao, đồng thời
cũng có lòng yêu thương kỳ lạ, dám sống “khác người”, nhưng Đức Kitô còn “khác
người” hơn nhiều – như trong ba dụ ngôn điển hình về Lòng Thương Xót: con chiên
bị lạc (Ga 15:4-7), đồng bạc bị mất (Ga 15:8-10), người cha nhân hậu (Ga 15:11-31).
Họ dám xả thân cho người-mình-yêu vì
họ khao khát yêu thương cháy bỏng. Họ không chỉ vĩ đại mà thực sự là thánh nhân
vậy. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình” (Ga 15:13).
Bản Trường ca Kđau khổ không được Chúa Giêsu nói rõ nhưng
Ngài có cách nói khác: “Ngày nào có cái
khổ của ngày đó (Mt 6:34). Điều đó có nghĩa là chẳng bao giờ hết đau khổ,
và như vậy còn hơn là bản trường ca nữa! Và mỗi chúng ta cũng phải là một nốt
nhạc nhỏ trong bản trường ca đó để cùng hòa âm với “nốt khổ” chủ yếu chính là
Đức Giêsu Kitô.
Lạy Thiên Chúa là Vua
các vua nhưng dịu hiền, là Thẩm phán tối cao công minh nhưng nhân hậu, là người
Cha yêu thương vô cùng, chúng con thật bất xứng. Vạn lạy Ngài, xin xót thương
và tha thứ, “chúng con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là
con cha nữa” (Lc 15:18-19). Nhưng chúng con vững tin vào Tình Chúa bao la và luôn
tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Từ nay, “xin tạo cho chúng con tấm lòng
trong trắng, đổi mới tinh thần cho chúng con nên chung thuỷ và ban lại cho chúng
con niềm vui được Ngài cứu độ” (Tv 51:12 & 14). Vì Cuộc Khổ Nạn đau thương
của Chúa Giêsu, vì Bửu Huyết của Chúa Giêsu, và vì Châu Lệ của Đức Mẹ, xin Chúa
cứu độ các linh hồn và cả thế giới. Chúng con muốn trở thành lưỡi đòng đã vô
tình đâm thấu Thánh Tâm Chúa, và xin cho chúng con ở trong đó mãi mãi. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét