DI CHÚC CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG
GIOAN PHAOLÔ 2
GIOAN PHAOLÔ 2
Chúa Giêsu đã hứa qua
Thánh Nữ Faustina: “Từ Ba Lan sẽ trổi lên một tia sáng để chuẩn bị cho lần trở
lại thế giới thứ hai của Ta”. Tia sáng đó chính là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
2, người thiết lập Đại Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót cho toàn thế giới, mừng
kính vào Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong Chân Phước vào chính
ngày Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, 1.5.2011, và nay được Giáo Hội tuyên Hiển
Thánh, ngày 27.4.2014, cũng là Lễ Kính Lòng Chúa Thuơng Xót.
Các con
thân mến !
Hiện nay các
con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng
kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ
cha thông báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên
Chúa giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.
Các con thân mến, khi cha ra đi cũng
chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày
càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy ra, tại các
nước lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines.
Các con là những người cha tin yêu
nhất, những người con thuộc dòng dõi Đavít, các con hãy kêu xin Thiên Chúa bằng
cách đọc kinh cầu nguyện với những lời kinh tha thiết sau đây:
Xướng: Xin Thiên Chúa dủ lòng thương
xót chúng con !
Đáp: Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và
đặt chúng con trên trái đất này.
Xướng: Xin an ủi nâng đỡ chúng con
trong lúc gian nguy.
Đáp: Vì Chúa là nguồn an ủi của
chúng con.
Xướng: Xin xua đuổi những giặc thù
xa chân chúng con.
Đáp: Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng
con.
Kết: Xin phù hộ
chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày
kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. Amen.
Sau những lời nguyện trên, các con
hãy đọc: Một Kinh Tin Kính, Một Kinh Chúa Thánh Thần, Một Kinh Ăn Năn Tội, và
lời nguyện tắt: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn
nước”.
Khi các con phổ
biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một Ơn Tiểu Xá, cứ
100 người thì được một Ơn Đại Xá. Và khi các con rời thế gian này sẽ được các
Thiên Thần đưa về Trời hưởng hạnh phúc muôn đời. Cha ban phép lành và chúc phúc
cho những ai phổ biến bản kinh này.
Dưới đây là Di Chúc Tâm Linh của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tòa
Thánh Vatican ấn hành ngày 7.4.2005.
DI CHÚC
Di chúc ngày 6.3.1979 ( và
những lần thêm kế tiếp )
Con tùy thuộc tất cả về Mẹ ( Totus Tuus ego sum ), nhân danh Chúa Ba Ngôi
cực thánh. Amen.
“Hãy tỉnh thức, vì các con
không biết ngày nào Chủ các con đến” ( x. Mt 24, 42 ). Những lời này gợi trong tôi lời gọi cuối cùng sẽ đến
vào lúc mà Chúa sẽ muốn. Tôi ao ước theo Ngài và tôi ao ước tất cả những gì
thuộc về đời sống trần gian của tôi đều chuẩn bị tôi cho lúc này. Tôi không
biết khi nào Ngài đến, nhưng như với mọi sự, tôi cũng đặt cả giây phút này
trong tay Người Mẹ của Chúa tôi: Tất cả dâng cho Mẹ ( Totus Tuus ). Trong đôi
tay mẫu tử, tôi đặt hết mọi sự và tất cả những người mà đời sống cũng như ơn
gọi của tôi đã có mối dây liên lạc. Trong Đôi Tay này, tôi xin trao cách đặc
biệt Giáo Hội cũng như Quê Hương tôi và tất cả nhân loại. Tôi cảm tạ tất cả. Tôi xin tất cả thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng xin một lời nguyện để Lòng Nhân Từ của Chúa tỏ hiện lớn hơn sự yếu đuối và sự bất xứng của tôi.
Trong những dịp linh thao, tôi đã đọc lại lời di chúc của Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI. Bài đọc đó thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.
Tôi không để
lại sau tôi một của cải gì mà cần thiết phải giữ cả. Về những đồ vật mà tôi dùng thường ngày và
hữu ích cho tôi, tôi mong sao chúng được phân phối một cách thuận tiện nhất.
Những điều ghi chép bằng tay, xin được đốt đi. Về điểm này, tôi yêu cầu Lm.
Stanislao lo liệu, người mà tôi cảm ơn về sự cộng tác và giúp đỡ trong suốt bao
năm trường với đầy sự cảm thông. Ngược lại, tất cả những lời cảm tạ khác, tôi
xin giữ trong tim tôi trước Thiên Chúa, bởi vì rất khó để diễn tả những lời đó.
Về phần mai táng, tôi lập lại những điều khoản mà Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI đã đặt ra. ( Ở đây có một lời ghi chú bên lề: Quan tài trong đất chứ không trong
hòm đá, 13.3.1992 ).
“Vì ở nơi Chúa là lòng nhân
từ, và nơi Người là ơn cứu độ chan hòa” ( kinh “Từ Vực Sâu ) – De Profundis: “Qui apud Dominum misericordia: et
copiosa apud Eum redemptio”.
Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II
Rôma, 6.3.1979
Sau khi tôi chết, tôi xin những Thánh Lễ và lời cầu nguyện.
Ngày 5.3.1990
Tôi diễn tả với lòng trông cậy sâu xa nhất, mặc dù với tất cả sự yếu đuối
của tôi, rằng Chúa sẽ cho tôi tất cả ân sủng cần thiết để đối phó, theo Thánh Ý
Ngài, bất cứ công việc nào, thử thách nào và khổ đau nào mà Ngài muốn cho đầy
tớ của Ngài chịu trong cuộc sống. Tôi cũng tin tưởng rằng, qua thái độ của tôi:
những lời nói, những công việc và những sơ sót, Ngài sẽ không bao giờ để tôi có
thể phản bội những bổn phận của tôi trên Ngai Thánh Giáo Hoàng này.
24.2 tới 1.3.1980
Cũng trong dịp linh thao này, tôi đã suy ngẫm về chân lý của Chức Vụ Linh
Mục của Đức Kitô trong viễn tượng của chuyến hành trình, đối với mỗi người
trong chúng ta, là chính lúc mình chết. Đối với chúng ta, Sự Phục Sinh của Đức
Kitô là một dấu chỉ hùng hồn ( được viết thêm phía trên: “quan trọng” ) của lúc
từ giã cõi đời này, để được sinh ra trong thế giới bên kia, thế giới tương lai.
Như thế tôi cũng đã đọc lại bản di chúc của tôi viết hồi năm ngoái, cũng
vào dịp cấm phòng – tôi đã so sánh bản ấy với bản di chúc của vị vĩ đại đi
trước tôi là Cha Phaolô VI, với chứng tá tuyệt vời về sự chết của một Kitô hữu
và một Giáo Hoàng – và tôi đã canh tân trong tôi ý thức về những câu hỏi mà bản
di chúc ngày 6.3.1979 đã đề cập mà tôi đã chuẩn bị ( đúng hơn là chỉ tạm thời ).
Hôm nay, tôi chỉ mong thêm vào bản di chúc đó
điều này: Chớ gì mỗi người phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và
phải biết sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa là Đấng Thẩm Phán – đồng thời là
Đấng Cứu Độ và Người Cha. Tôi cũng thế, tôi ý thức sự nối tiếp này, giao phó
giờ quan trọng này cho Mẹ của Đức Kitô và của Giáo Hội – Người Mẹ của niềm hy
vọng nơi tôi.
Thời gian mà chúng ta đang sống rất khó diễn tả, thật
là khó khăn và đáng quan ngại. Con đường của Giáo Hội cũng thật khó khăn và khô
cằn, bằng chứng tiêu biểu của thời đại này, vừa đối với các tín hữu cũng như
các chủ chăn. Trong vài quốc gia – chẳng hạn quốc gia mà tôi đã đọc một vài
điều liên quan đến trong những dịp cấm phòng, Giáo Hội lâm vào một giai đoạn
của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì những thế kỷ đầu, và còn hơn thế nữa, nó
còn vượt quá bởi mức độ của sự khinh bỉ và oán ghét. “Máu các Thánh Tử Đạo –
mầm giống của các Tín Hữu” ( Sanguis martyrum – semen christianorum ). Và thêm
vào điều đó biết bao người vô tội mất tích, kể cả trong quốc gia mà chúng ta
đang sống…
Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân
tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế
nào về đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc
sống và trong sự chết, “Tất cả dâng cho Mẹ” ( Totus Tuus ), qua Đức Vô Nhiễm
Nguyên Tội.
Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết
này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa
là sự phục sinh của tôi. Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ biến sự chết này thành hữu
ích cho cả mục tiêu quan trọng hơn mà tôi hằng kiếm cách phục vụ: Sự cứu rỗi
con người, sự bảo trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại, tất cả các quốc gia
và các dân tộc ( trong các quốc gia này, tôi cũng đặc biệt xin cho Quê Hương
trần gian của tôi ), hữu ích cho những người mà Ngài đã giao phó cho tôi một
cách đặc biệt, cho vấn đề của Giáo Hội, cho sự vinh danh của chính Chúa nữa.
Tôi không muốn thêm gì nữa vào điều đã được viết cách đây một năm, chỉ
nhắc lại sự bộc phát tự nhiên và cùng lúc với sự tin tưởng mà tuần linh thao
này đã lại khơi dậy trong tôi lần nữa.
Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II
“Totus Tuus ego sum”
Ngày 5.3.1982
Qua dịp linh thao của năm nay, tôi đã nhiều lần đọc bản di chúc ngày 6.3.1979.
Mặc dù tôi cho rằng bản đó còn tạm thời, tôi để lại nó dưới hình thức như thế.
Tôi không thay đổi gì cả ( trong lúc này ), và tôi cũng chẳng thêm gì liên quan
các dự định được viết trong bản di chúc.
Vụ ám sát tôi vào ngày 13.5.1981, một hình thức nào đó, đã xác định sự
chính xác của những lời đã được ghi chép trong dịp linh thao của năm 1980 ( từ
24.2 đến 1.3 ).
Tôi lại càng cảm thấy sâu xa hơn khi tôi thấy mình hoàn toàn ở trong bàn
tay của Thiên Chúa – và tôi luôn sẵn sàng theo Ý Chúa, từ bỏ mình cho Ngài qua
Mẹ Vô Nhiễm của Ngài.
Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II
5.3.1982
Liên quan câu cuối cùng của bản di chúc của tôi viết ngày 6.3.1979 ( về
điều liên quan nơi chốn, nghĩa là nơi chôn cất, xin Hội Đồng Hồng Y và các đồng
bào của tôi quyết định ), tôi muốn nói là Đức Tổng Giám Mục thành Cracovie hay
Hội Đồng Giám Mục Ba Lan. Như thế, tôi xin Hội Đồng Hồng Y thỏa mãn, nếu có thể,
những yêu cầu của những người đã được kể trên.
Ngày 1.3.1985 ( trong dịp cấm phòng )
Một lần nữa, về điều liên quan câu “Hồng Y Đoàn và các đồng hương”: “Hồng
Y Đoàn” không có sự bắt buộc nào phải kêu gọi các “người đồng hương” về điều
liên quan vấn đề này. Tuy nhiên, Hồng Y Đoàn có thể làm điều đó, nếu vì một lý
do nào đó Hồng Y Đoàn cảm thấy điều đó phải làm.
Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II
Dịp Linh Thao của Năm Thánh
năm 2000, từ 12 đến 18.3.2000 ( cho bản di chúc )
1. Ngày 16.10.1978, khi Hội Đồng Mật các Hồng Y chọn Gioan-Phaolô II, Vị
Giáo Trưởng Giáo Hội Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszynski nói với tôi: “Bổn phận của Đức Tân Giáo Hoàng sẽ là phải
đưa Giáo Hội vào đệ tam thiên niên kỷ”. Tôi không nhớ chính xác những lời
nói của ngài, nhưng đại ý là lời của Nhân Vật đã đi vào lịch sử như Vị Giáo
Trưởng của thiên niên kỷ, một vị Giáo Trưởng vĩ đại. Tôi đã là nhân chứng về sứ
vụ của ngài, về sự phó thác hoàn toàn của ngài, về những cuộc phấn đấu của ngài,
về sự chiến thắng của ngài. “Khi nó đến, sự chiến thắng đó sẽ là sự chiến thắng
qua Mẹ Maria”. Đức Hồng Y lập lại thường xuyên những lời này của vị đi trước
ngài, Đức Hồng Y August Hlond.
Tôi như thế là được rồi, theo hình thức nào đó, chuẩn bị cho phận vụ mà
ngày 16.10.1978 đã được trao phó cho tôi. Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm
Thánh 2000 đã là một thực tế tác động. Đêm 24.12.1999, chúng tôi đã mở Cánh Cửa
biểu tượng của Năm Thánh trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, sau đó là
cửa của Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, rồi đến cửa của Đền Thờ Đức Bà Cả vào Năm
Mới, và ngày 19 tháng 1, cánh cửa của Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành.
Biến cố cuối cùng này, vì tính cách hoàn vũ của nó, được ghi ấn trong ký ức một
cách đặc biệt.
2. Lần lượt theo sự tiến triển của Năm Thánh 2000, thế
kỷ XX tự đóng dần, ngày này tiếp ngày nọ, sau chúng ta và thế kỷ XXI đang mở
ra. Theo các dự án của Đấng Quan Phòng, tôi đã sống trong một thế kỷ khó khăn
đang đi vào lịch sử, và bây giờ, năm mà tôi trở thành Bát Tuần ( octogesima
adveniens – có chú thích: đây là Tông Thư của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết
ngày 14.5.1971 dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp Rerum Novum – Tân Sự của Đức Giáo
Hoàng Lêô XIII ), phải tự hỏi nếu không phải đã đến giờ phải lập lại lời của
ông Simêon trong Kinh Thánh: “Bây giờ xin
hãy cho tôi ra đi” ( Nunc dimittis ).
Ngày 13.5.1981, ngày ám sát Giáo Hoàng trong
buổi yết kiến chung tại công trường Thánh Phêrô, Chúa Quan Phòng đã cứu tôi
khỏi chết một cách nhiệm mầu. Đấng chính là Thiên Chúa duy nhất của sự sống và
sự chết đã kéo dài đời sống tôi, một cách nào đó, Ngài đã cho lại tôi sự sống.
Từ giây phút đó, đời sống tôi tùy thuộc vào Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng
Ngài sẽ giúp tôi nhìn nhận đến lúc nào tôi phải tiếp tục phận sự này mà Ngài đã
gọi tôi vào ngày 16.10.1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Ngài khi Ngài
muốn ( x. Rm 14, 8 ). Tôi cũng hy vọng Lòng Nhân Từ của Chúa vui lòng cho tôi
những sức mạnh cần thiết để làm phận vụ này chừng nào tôi còn phải chu toàn
phận vụ Giáo Hoàng trong Giáo Hội.
3. Như mỗi năm vào dịp linh thao, tôi đều đọc lại bản di chúc của tôi viết
ngày 6.3.1979. Tôi tiếp tục giữ những điều khoản được ghi trong đó. Điều đã
được thêm vào qua những lần cấm phòng kế tiếp, phản ảnh tình thế chung khó khăn
và căng thẳng đã in hằn trong thập niên 1980. Tình huống này đã thay đổi kể từ
mùa thu năm 1989. Thập niên cuối cùng của thế kỷ đã qua, đã không có những căng
thẳng của những thập niên trước; điều này không có nghĩa là thập niên cuối đã
không có những vấn đề mới, những khó khăn. Xin ca tụng Chúa Quan Phòng một cách
đặc biệt cho sự kiện là giai đoạn của “chiến tranh lạnh” đã được chấm dứt, không
có tranh chấp, bạo lực hạt nhân mà sự đe dọa của nó lơ lửng trên thế giới trong
suốt giai đoạn trước.
4. Đứng thẳng trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên niên kỷ, giữa lòng Giáo Hội
( in medio Ecclesiae ), tôi ước mong lần nữa diễn tả sự biết ơn của tôi với
Chúa Thánh Thần đã ban đặc ân cho Công Đồng Vatican II, mà đối với Công Đồng và
toàn thể Giáo Hội, nhất là với cộng đoàn giám mục hoàn cầu, tôi mang một món
nợ.
Tôi tin rằng các thế hệ tương lai còn có thể múc được sự phong phú trong
thời gian lâu dài mà Công Đồng này của thế kỷ thứ XX đã ban cho chúng ta. Với
cương vị của một Giám Mục đã tham dự vào Công Đồng này từ ngày đầu tiên đến
ngày cuối cùng, tôi ước mong trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị
đang và sẽ được gọi để thực hiện những quyết định của Công Đồng. Về phần tôi, tôi
cảm tạ Vị Chủ Chăn đời đời đã cho phép tôi phục vụ sự nghiệp lớn lao này trong
suốt những năm tháng trên ngôi vị Giáo Hoàng của tôi.
“Giữa lòng Giáo Hội”... kể từ ngay những năm đầu của sứ vụ Giám Mục, chính
xác hơn là nhờ vào Công Đồng, tôi đã thu thập được kinh nghiệm của sự thông
hiệp huynh đệ của hàng Giám Mục. Là Linh Mục của Tổng Giáo Phận Cracovie, tôi
đã thực nghiệm sự thông hiệp huynh đệ trong linh mục đoàn, Công Đồng đã đem lại
một kích thước mới cho kinh nghiệm này.
5. Có biết bao người mà tôi phải viết ra đây !
Có lẽ Chúa đã gọi về với Ngài một số lớn trong nhóm. Về phần những người còn
tại thế, ước gì những lời của bản di chúc này nhắc nhớ đến họ, tất cả và mọi
nơi, dù họ ở bất cứ nơi nào.
Từ lúc tôi chu toàn bổn phận Giáo Hoàng, nghĩa là hơn 20 năm, “trong lòng
Giáo Hội”, tôi đã thực hiện sự cộng tác khoan dung và cũng rất là phong phú của
rất nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, rất nhiều Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, và
rất nhiều Giáo Dân, trong lòng Giáo Triều Rôma, tại Giáo Phận Rôma cũng như
ngoài những nơi này.
Không thể không ôm vào lòng tất cả các hàng Giáo Phẩm trên thế giới, với
sự biết ơn đáng nhớ, mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng mộ các Tông Đồ ( Ad
limina apostolorum ).
Cũng không thể không nhớ biết bao anh em đông
đúc Kitô hữu và không Công Giáo ! Vị Giáo Trưởng Do Thái Giáo thành Rôma và rất
nhiều những vị đại diện các tôn giáo ngoài Kitô Giáo ! Và biết bao vị đại diện
thế giới thuộc lĩnh vực văn hoá, khoa học, chính trị và các phương tiện truyền
thông xã hội.
6. Dần dần mức giới hạn đời sống trần gian của tôi
tăng trưởng, với ý tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh chị tôi
( người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra ), về Giáo
Xứ Wadowice, nơi tôi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, đến “thành phố này mà tôi đã
từng rất yêu mến”, đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, bạn trai và
gái, trường tiểu học, trường trung học, đại học, đến giai đoạn quê hương bị
chiếm giữ, lúc tôi làm việc như một thợ thuyền, và sau đó đến Giáo Xứ Niegowic,
Giáo Xứ S. Floriano ở Cracovie, mục vụ các đại học, tại các nơi... tất cả mọi
nơi... ở Cracovie và Rôma... đến những người đã được Thiên Chúa trao phó cho tôi
một cách đặc biệt.
Cuối cùng, tôi chỉ muốn nói một điều duy
nhất: “Chớ gì Thiên Chúa ban thưởng cho
quý vị”. “In manus Tuas, Domine, commendo spiritum meum” ( Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác
hồn con ).
17.3.2000
( Trích dịch “Di chúc của Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II”, người qua đời ngày 2.4.2005, áp lễ kính Lòng Chúa
Thương Xót, theo bản tiếng Anh của Lm. Lorenso thuộc Bộ Giáo Lý Đức Tin, Rôma
).
TRẦM
THIÊN THU
Theo EPHATA số 607
0 nhận xét:
Đăng nhận xét