Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

GS Phạm Duy Hiển: Với điện hạt nhân, phải nói cho đúng!


LTCGVN (29.09.2013)"Trước mắt, việc khởi công nhà máy ĐHN đầu tiên năm 2014 coi như hỏng? Muốn khởi công phải có tài liệu, có thiết kế, luận chứng… trong khi hiện tại chưa có gì. Nếu nỗ lực một cách nghiêm túc, sớm nhất là năm 2018 mới có thể khởi công. Tôi cho rằng càng chậm càng tốt vì đến năm 2030 sẽ có những loại lò phản ứng rất hiện đại".

Nhân việc Nhật Bản dừng lò phản ứng điện hạt nhân cuối cùng, GS Phạm Duy Hiển, chuyên gia hàng đầu về ĐHN tại Việt Nam bàn tới việc xây dựng nhà máy ĐHN ở Việt Nam..

Nhật Bản tạm dừng hạt nhân vì nghe dân

PV: – Thưa ông, vào sáng 16/9 Nhật Bản đã chính thức đưa ra thông tin dừng lò phản ứng điện hạt nhân cuối cùng tại Ohi và không đưa ra khung thời gian có thể tái khởi động, dù điện hạt nhân chiếm 30% nguồn cung năng lượng của đất nước này. Theo ông, đây có phải là quyết định dễ dàng với Nhật Bản? Và tại sao lãnh đạo nước này phải đưa ra quyết định như vậy?

GS Phạm Duy Hiển: - Đây là một vấn đề phức tạp, nhất là hiện nay đã có hiện tượng rò rỉ phóng xạ xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Theo kết luận của Chính phủ Nhật Bản, mức độ phóng xạ xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima đã cao hơn tới 18 lần so với những báo cáo trước đó mà Công ty điện lực Tokyo Nhật Bản (Tepco) ghi nhận.

Việc Tepco mập mờ về thông tin như vậy khiến người dân càng thêm không yên tâm. Sự thực cũng phải thừa nhận rằng, họ đã cố gắng hết sức nhưng chuyện phóng xạ là tế nhị và nhạy cảm, còn dân thì không thể hiểu hết được.

Cho nên, nói tuyên truyền về hạt nhân chỉ là nói vậy thôi, chứ thực chất vấn đề phức tạp hơn rất nhiều. Tại sao điện hạt nhân lại bị phản đối nhiều như thế, là vì không có nhiều người hiểu biết về nó, trong khi đi tuyên truyền lại không chừng mực.

Nhật Bản đang gặp phải vấn đề như vậy. Nếu Chính phủ Nhật Bản vẫn tiếp tục điện hạt nhân, người dân không nghe, dù họ biết rõ, thiếu điện thì giá điện sẽ tăng lên. Theo tôi, chắc chắn cuối cùng Nhật Bản sẽ cho một số lò chạy thôi nhưng muốn làm thế thì người dân địa phương phải đồng thuận.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (mũ đỏ) thị sát nhà máy 
Fukushima 1 và hối thúc tập đoàn tháo dỡ hai lò phản ứng còn lại của nhà máy 

PV: - Tại Việt Nam, sự việc Lâm Đồng nhắc đi nhắc lại rằng “sợ” điện hạt nhân thời gian gần đây khiến dư luận không khỏi lo ngại (lò phản ứng trong Trung tâm hạt nhân có công suất bằng 1/100 một lò hạt nhân xây dựng ở Ninh Thuận). Thưa ông, phản ứng của Lâm Đồng và dư luận thể hiện điều gì trong thái độ của người dân với điện hạt nhân? Khi tâm lý người dân chưa thật sẵn sàng như vậy, liệu Việt Nam có thể học theo Nhật Bản?

GS Phạm Duy Hiển: - Cách đây hơn một năm, khi tổng kết thảm họa Fukushima, người ta nói rằng: “Đừng nói với người dân rằng điện hạt nhân là an toàn, mà hãy nói hãy tin chúng tôi. Chúng tôi sẽ cố gắng làm cho nó an toàn”. Phải nói cho đúng để người dân tin. Điều này tôi cũng đã từng nói với những người có trách nhiệm, và cả những người nghiên cứu về ĐHN nhưng không biết người ta nghe đến đâu.

Trên thực tế, sau sự cố Fukushima, nhiều nước vẫn làm ĐHN chứ không phải quay lưng hẳn. Nhưng vấn đề làm như thế nào thì các nước được lưu ý rất kỹ.

ĐHN càng chậm càng tốt

PV: – Bất chấp nhiều cảnh báo, ĐHN vẫn được coi như là lời giải cho việc thiếu năng lượng của Việt Nam trong 20 năm tới. Đến thời điểm này, theo ông đánh giá, Việt Nam đã làm được những gì và còn thiếu những gì để có thể phát triển điện hạt nhân một cách an toàn? Nhìn vào xu hướng thế giới như vậy, Việt Nam nên có những điều chỉnh như thế nào?

GS Phạm Duy Hiển: - Chính phủ Việt Nam đã ký kết với nước ngoài, quyết làm điện hạt nhân nên giờ rất khó biết phải nói thế nào. Nhưng chuyên gia nếu nói thì cũng phải nói cho đúng sự thật.

Nói nếu có sự cố thì Việt Nam có thể sẽ bị chia cắt ra làm đôi, trong khi xuất khẩu, kinh tế bị tê liệt ngay tức khắc và toàn bộ dải đất miền Trung sẽ bị ô nhiễm phóng xạ bao trùm trong nhiều năm nếu xảy ra một thảm họa hạt nhân như vụ Tchernobyl hay Fukushima cũng không chuẩn. Nói kiểu ‘an toàn tuyệt đối’ cũng là sai. 

Vậy Việt Nam cần phải làm gì? Chỉ có cách làm đúng luật, đúng khả năng, không được chạy theo tiến độ. Trước mắt, việc khởi công nhà máy ĐHN đầu tiên năm 2014 coi như hỏng? Muốn khởi công phải có tài liệu, có thiết kế, luận chứng… trong khi hiện tại chưa có gì.

Nếu nỗ lực một cách nghiêm túc, sớm nhất là năm 2018 mới có thể khởi công. Tôi cho rằng càng chậm càng tốt vì đến năm 2030 sẽ có những loại lò phản ứng rất hiện đại.

Hiện tại, Việt Nam phải đối diện với vấn đề: làm sao để có đủ nguồn nhân lực? Thách thức lớn nhất với chúng ta là vấn đề này.

Trong việc phục vụ cho chương trình ĐHN, phải đào tạo được: chuyên gia vận hành lò phản ứng (để vận hành một lò phản ứng như của Nga, phải cần ít nhất là 300 hoặc 400 người, trong đó phải có những người đứng đầu biết xử lý mọi tình huống, tức phải là những người có kinh nghiệm);

Chuyên gia thẩm định dự án và giám sát thi công; chuyên gia có kinh nghiệm ở các cơ quan pháp quy độc lập với nhà máy (phải làm trong nghề ít nhất 10 năm sau khi tốt nghiệp đại học). Hiện Việt Nam chưa có những người như vậy.

GS Phạm Duy Hiển: Làm ĐHN bước được đến đâu đi đến đó chứ không phải nhảy. 

Về chuyện đào tạo trong nước, tuy Chính phủ đã chuẩn chi 3 ngàn tỷ đồng cho dự án này nhưng ai sẽ làm thầy? Trong thế hệ “trẻ” hiện nay chưa ai từng kinh qua những trường đào tạo về hạt nhân nghiêm chỉnh, những chuyến xuất ngoại vài ba tuần lễ chỉ đủ để cưỡi ngựa xem hoa. 
Vậy làm sao họ có thể đào tạo các chuyên gia ĐHN? Mà trong chương trình lại thấy đào tạo cả thạc sỹ, tiến sỹ nữa? Tiến sĩ chỉ là những người nghiên cứu, chứ vào nhà máy ĐHN để làm gì ở đó?!.

Tôi nghĩ lúc này, không còn cách nào khác, chúng ta phải đối diện thẳng với việc cấp tốc làm thế nào để cho có người làm ĐHN. Chúng ta cứ làm đi rồi sẽ thấy ta không làm nổi theo tiến độ đã đề ra, không thể đến năm 2020 đã có điện hạt nhân.

Nhiều người nghĩ rằng họ có thể làm được đủ mọi việc. Nhưng với ĐHN, khi bắt đầu vào những việc cụ thể, người ta mới thực sự thấy không giống như khi xây dựng đề án trên giấy.

Ngay từ đầu tôi đã nói điều này và đến bây giờ những người trực tiếp làm ĐHN đang phải đối mặt với chính vấn đề đó. Rất nhiều cán bộ trước đây hào hứng khi Quốc hội thông qua chủ trương làm ĐHN nhưng bây giờ bắt đầu hiểu ra rằng những cảnh báo trước đây là có thật.

Trước đây, trong giới khoa học, có lẽ chỉ mình tôi không ủng hộ việc làm ĐHN, bây giờ đã có nhiều người thừa nhận những lo ngại là có căn cứ.

PV: – Một chuyên gia về năng lượng đã tính toán, nếu Việt Nam thay đổi nền kinh tế tiêu thụ năng lượng vô lối, không hiệu quả như hiện nay, rồi tính toán lại nhu cầu điện năng thực tế, có thể Việt Nam sẽ không cần viện tới điện hạt nhân. Ông nghĩ như thế nào về thông tin này? Liệu có nên coi đây là một gợi ý đáng cân nhắc để giải bài toán năng lượng ở Việt Nam mà không phải bằng mọi giá phát triển điện hạt nhân dù hoàn cảnh thực tế chưa phù hợp?

GS Phạm Duy Hiển: - Có chứ nhưng người ta không muốn làm. Đã có số liệu chứng minh Việt Nam sử dụng năng lượng không hiệu quả nhất thế giới. Năm ngoái tăng trưởng kinh tế chỉ có 5,3% trong khi điện xài đến 12,5%, tức là điện hơn gấp đôi tăng trưởng. Tại sao trong cùng một đất nước mà điện năng ở TP Hồ Chí Minh chỉ tăng 7%/năm, tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, trong khi Hà Nội lại tăng đến 17%/năm, Quảng Ninh 21%?

Thông thường khi các nhà quy hoạch xây dựng lộ trình phát triển điện phải căn cứ để GDP tăng thêm 1% điện phải tăng thêm bao nhiêu %, con số này được gọi là hệ số đàn hồi (HSĐH). Chính hệ số này nói lên hiệu quả sử dụng điện của nền kinh tế. Nó càng bé, nền kinh tế càng hiệu quả, đất nước càng hiện đại.

Khát điện như Trung Quốc mà họ cũng thấy rằng HSĐH suýt soát 1 là quá lãng phí. Nhận ra mối nguy, trong kế hoạch 2006-2010 họ kiên quyết giảm tốc độ tăng trưởng điện xuống trong khi vẫn bảo đảm tăng trưởng kinh tế mạnh.

Riêng trong hai năm 2008-2009, lượng điện thương phẩm của Trung Quốc chỉ tăng 6%/năm trong khi GDP tăng gần 10%/năm. Hai con số này ngược hẳn với ta: GDP tăng chưa đầy 6%/năm nhưng điện lại tăng đến 13%/năm.

Việt Nam cần xác định đúng thủ phạm gây lãng phí điện năng và có biện pháp xử lý. Năm 2010 và 2011, khi kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp phá sản khiến cho tiêu thụ điện giảm hẳn, hệ số đàn hồi điện/GDP giảm xuống còn 1,8 (2010) và 1,6 (2011). Điều này chứng tỏ thủ phạm chính gây lãng phí điện năng nằm trong khối sản xuất, xây dựng, chứ không phải trong khối hộ gia đình.

Vậy làm thế nào để xử lý tình trạng lãng phí điện như trên? Theo tôi, phải áp tiêu chí tiêu thụ điện năng vào trách nhiệm của lãnh đạo các tỉnh và công khai hóa cho mọi người đều biết. Tiêu thụ điện năng phải được xem như tiêu chí ưu tiên khi xét duyệt các dự án đầu tư trong và ngoài nước.

Những công nghệ lạc hậu tiêu tốn điện năng phải tìm cách loại bỏ dần v.v... Ai vi phạm trong khâu xét duyệt dự án sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.

Nói như vậy không phải là để tháo lui ĐHN, bây giờ chúng ta đang trong tình thế buộc phải đi tới. Thế nhưng phải đi tới cho đúng, bước được đến đâu đi đến đó chứ không phải nhảy cóc rồi ngã nhào. 

Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc trao đổi!



*

GS. Trần Đại Phúc: Báo động đỏ nhân lực Điện hạt nhân VN

Bích Ngọc (Đất Việt) - "Nên nhớ rằng bất kì một sự thiếu hiểu biết nào cũng có thể dẫn đến một sự xử lý sai trong quá trình vận hành nhà máy ĐHN. Trong khi mọi công nghệ điện hạt nhân đều có tỷ lệ rủi ro. Do vậy khâu đào tạo con người đang là báo động đỏ khi làm điện hạt nhân ở Việt Nam. Trong khi những tiêu chí và những văn hóa cần thiết Việt Nam với tình thế hiện nay khó có thể đáp ứng được".

Giáo sư Trần Đại Phúc, người đã có thâm niên hơn 40 làm việc trong lĩnh vực công nghệ hạt nhân tại nhiều quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Bỉ…, một thành viên trong Tổ tư vấn Việt - Pháp của Dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) tại Ninh Thuận và đang dành nhiều tâm huyết cho công tác đào tạo nhân lực hạt nhân cho Việt Nam đã chia sẻ với Đất Việt những lo lắng này.

Quyết định không dễ dàng với Nhật Bản

PV: - Thưa ông, vào sáng 16/9 Nhật Bản đã chính thức đưa ra thông tin dừng lò phản ứng điện hạt nhân cuối cùng tại Ohi và không đưa ra khung thời gian có thể tái khởi động, dù điện hạt nhân chiếm 30% nguồn cung năng lượng của đất nước này. Theo ông, đây có phải là quyết định dễ dàng với Nhật Bản? Và tại sao lãnh đạo nước này phải đưa ra quyết định như vậy?

Giáo sư Trần Đại Phúc: - Nhà máy ĐHN OHI (miền Tây Nhật Bản) gồm có 4 tổ máy, thiết kế bởi Westinghouse và MHI (Mitsubishi Heavy Industry) là loại lò phản ứng hạt nhân (LPUHN) với nước làm mát dưới áp (PWR).

Sau thảm họa Fukushima, những LPUHN này đã ngừng hoạt động và vào tháng 6/2012 nhà máy vận hành Kepco đã được phép khởi động lại bởi các cơ quan địa phương và cựu Thủ tướng Yoshihiko Noda.

Vào ngày 15/09/2013, Kepco (Kensai Electric Power) ngưng hoạt động động LPUHN số 4, để bảo dưỡng theo kế hoạch dự trù và không đưa ra khung thời gian có thể tái khởi động. Sau khi ngưng LPUHN số 4 này, kể từ ngày 16/09/2013 Nhật Bản hoàn toàn không có nguồn năng lượng ĐHN nữa.

Theo tôi, đây là một quyết định không dễ dàng đối với Nhật Bản. Hiện tại chúng ta chưa có thông tin về phía Kepco đối với tình trạng của LPUHN này sau hơn một năm được phép hoạt động trở lại.

Hiện tại tất cả các LPUHN ở Nhật Bản đang được nâng cấp để đáp ứng với những tiêu chí an toàn mới liên quan đến những sự cố gây ra bởi những thiên tai và hành động khủng bố.

Nhiều hệ số an toàn đang được thẩm định bởi cơ quan pháp quy độc lập. Dù rằng cơ quan này có thể gia tăng thời gian ấn hành để nâng cấp hoặc sửa chữa. Cơ quan này không có thẩm quyền cấp phép khởi động lại các LPUHN, mà chỉ đưa ra những kết quả đánh giá về mặt an toàn.

Chính phủ hiện tại của Thủ tướng Shinzo Abe thì có xu hướng cho khởi động lại những LPUHN nhưng với điều kiện phải đáp ứng các tiêu chí an toàn mới được đặt ra sau thảm họa Fukushima.

Nếu tính toán lại nhu cầu điện năng thực tế, có thể Việt Nam sẽ không cần cầu viện tới ĐHN 

PV: - Trong vài năm gần đây, các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức cũng đang thể hiện xu hướng từ bỏ năng lượng hạt nhân. Quyết định của Nhật Bản sẽ góp phần thúc đẩy xu hướng này như thế nào? Ông đánh giá như thế nào về cơ hội phát triển của các loại năng lượng sạch, thân thiện với môi trường trong cơn thoái trào của điện hạt nhân này?

Giáo sư Trần Đại Phúc: - Sau thảm họa Fukushima, một vài nước Âu-Châu như Đức, Bỉ, Thụy Sĩ đã dự trù bỏ ĐHN sau thập niên 2025. Hiện tại quyết định của nhật Bản chưa rõ ràng sẽ không góp phần thúc đẩy xu hướng này.

Dù rằng thân thiện với môi trường, những loại năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời…chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

Đối với các nước đã thực hiện và sử dụng những công nghệ này đã thấy rằng về mặt kỹ thuật, hiệu quả, bảo dưỡng và lệ thuộc vào những điều kiện thiên nhiên và nhất là hiệu suất rất thấp. Lại đòi hỏi một diện tích xây dựng rất lớn (đối với năng lượng mặt trời).

Do vậy các nguồn năng lượng này chỉ được coi là những nguồn năng lượng hỗ trợ và thích hợp cho những vùng với mật độ dân cư thấp, không có các cơ sở công nghiệp nặng. Năng lượng này luôn luôn cần có một năng lượng phụ trợ.

Đào tạo mang tính chất 'chia phần'

PV: – Thực tế, nhiều nước cũng đang giải bài toán thiếu năng lượng bằng cách đầu tư phát triển năng lượng sạch. Tại Việt Nam, bất chấp nhiều cảnh báo, điện hạt nhân vẫn được coi như là lời giải cho việc thiếu năng lượng trong 20 năm tới. Đến thời điểm này, theo ông đánh giá, Việt Nam đã làm được những gì và còn thiếu những gì để có thể phát triển điện hạt nhân một cách an toàn? Nhìn vào xu hướng thế giới như vậy, Việt Nam nên có những điều chỉnh như thế nào về phát triển điện hạt nhân để không tụt hậu, trở thành nước ôm “mối nguy” của thế giới?

Giáo sư Trần Đại Phúc: - Từ đây đến thập niên 2050, chưa có năng lượng nào có thể thay thế năng lượng hạt nhân. Năng lượng tái tạo hoặc năng lượng gió mặt trời… vẫn còn nhiều khuyết điểm so với một vài ưu điểm mà nó đem lại.

Tôi có thể nêu một vài khuyết điểm của chúng như : Năng lượng gió không ổn định, phụ thuộc thời tiết, ồn ào, công suất thấp; có thể xảy ra sự cố gẫy cánh quạt (35-45 vòng/phút)…

Còn với năng lượng mặt trời cũng lệ thuộc về khí tượng; công suất thấp, chiếm diện tích lớn; tuổi thọ các bảng hấp thụ ánh sáng mặt trời dưới 25 năm; giá thành xây dựng cao; cần hệ thống tích trữ năng lượng với chi phí cao…

Với những lý do trên, đối với địa lý và khí hậu của Việt Nam, những công nghệ này sẽ không mang lại một nguồn năng lượng ổn định để cung cấp cho các vùng nhiều cơ sở công nghiệp nặng.

Hiện tại chương trình ĐHN đã hợp tác với các đối tác như Liên bang Nga và Nhật Bản (đang còn trong giai đoạn lựa chọn công nghệ).

Mọi công nghệ đều có tỷ lệ rủi ro. Nguồn năng lượng hạt nhân mà Chính phủ hiện đang triển khai sẽ đem lại nguồn năng lượng tương lai (vào thập niên 2020) một nguồn năng lượng ổn định.

Để đảm bảo nguồn năng lượng này một cách an toàn, theo tôi Việt Nam phải có một chương trình đào tạo nhân lực một cách bài bản và với một thời gian dài liên tục 3,4 hoặc 5 năm chứ không như hiện tại chỉ gửi các cán bộ đi học tập ở nước ngoài trong 2, 3 tuần hoặc 2, 3 tháng.

Một chuyên viên vận hành lò phản ứng hạt nhân ở các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… được đào tạo liên tục trong môi trường chuyên ngành 5 hoặc 6 năm, chưa kể các kỹ sư an toàn phải ít nhất 6 đến 10 năm.

Nguồn nhân lực cho ĐHN của nước ta hiện nay đang trong tình trạng báo động đỏ, ít về số lượng và kém về chất lượng. Điều đó yêu cầu chúng ta là phải tích cực và chủ động trong công tác đào tạo với một tư duy nghiêm túc nhất. Có thể thấy cách thức tổ chức đào tạo đại học về ĐHN hiện nay cần được xem xét lại một cách cơ bản, vì nó mang tính chất “chia phần“.

Hiện nay Việt Nam có 5 trường đại học và 1 trung tâm được tham gia đào tạo chuyên ngành ĐHN, nhưng số lượng cán bộ giảng dạy của cả 5 trường này hết sức khiêm tốn và hầu hết không thuộc chuyên ngành công nghệ ĐHN. Bên cạnh sự yếu kém về chuyên môn là sự yếu kém về cơ sở vật chất thí nghiệm và thực tập cho sinh viên.

Nguồn nhân lực chất lượng kém không những chỉ gây lãng phí về nhân lực, tài lực của đất nước mà còn có thể gây ra tác hại không lường trước đối với ĐHN, vì ta nên nhớ rằng bất kì một sự thiếu hiểu biết nào cũng có thể dẫn đến một sự xử lý sai trong quá trình vận hành nhà máy ĐHN.

Mọi công tác chuẩn bị cho ĐHN Ninh Thuận đang được 
rốt ráo chuẩn bị nhưng 'nhớ rằng bất kì một sự thiếu hiểu biết 
nào cũng có thể dẫn đến một sự xử lý sai trong 
quá trình vận hành nhà máy ĐHN' - GS Trần Đại Phúc 

Luật năng lượng nguyên tử Việt Nam sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ một số điều bất cập, vì vậy đang được chuẩn bị các điều chỉnh và bổ sung cần thiết để trình Quốc hội xem xét và phê duyệt.

Ví dụ, tại Việt Nam, Cục an toàn bức xạ hạt nhân hiện theo Luật Năng lượng nguyên tử thì Cục này là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoặc cho phép các hoạt động liên quan đến bức xạ và năng lượng hạt nhân.

Tuy nhiên Cục này lại đang trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ - là cơ quan chủ quản một số tổ chức nghiên cứu triển khai các hoạt động trong lĩnh vực nói trên (Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ bức xạ TP.HCM….).

Như vậy không đảm bảo tính độc lập của các phán quyết của cục An toàn bức xạ hạt nhân như thông lệ quốc tế. Cơ quan này trên thế giới thường tồn tại độc lập, hoạt động theo luật định, thậm chí không trực thuộc Chính phủ.

Có thể Việt Nam không cần cầu viện tới ĐHN

PV: – Một chuyên gia về năng lượng đã tính toán, nếu Việt Nam thay đổi nền kinh tế tiêu thụ năng lượng vô lối, không hiệu quả như hiện nay, rồi tính toán lại nhu cầu điện năng thực tế, có thể Việt Nam sẽ không cần viện tới điện hạt nhân. Ông nghĩ như thế nào về thông tin này? Liệu có nên coi đây là một gợi ý đáng cân nhắc để giải bài toán năng lượng ở Việt Nam mà không phải bằng mọi giá phát triển điện hạt nhân dù hoàn cảnh thực tế chưa phù hợp? 

Hiện vấn đề phát triển điện hạt nhân đang được rốt ráo chuẩn bị tại Việt Nam trong khi nhiều cảnh báo của các nhà chuyên môn cho rằng hiện chúng ta đang còn thiếu rất nhiều cả về nhân lực, vật lực… cũng như ý thức nghiêm túc tuân thủ an toàn lao động. Ông nghĩ Việt Nam có thể học hỏi được gì từ câu chuyện của Nhật Bản?

Giáo sư Trần Đại Phúc: - Với dự án năng lượng ĐHN dự trù theo Chính phủ hiện nay với 10 tổ máy, trong thập niên 2030 mang năng lượng ĐHN sẽ góp vào khoảng 10-12% của tổng số điện quốc gia.

Dường như những phương pháp tránh nóng, lạnh khuyến khích tiết kiệm năng lượng của các thiết bị điện tử, nội thất… không hiệu quả như hiện nay. Đúng như theo chuyên gia nói trên, nếu Việt Nam thay đổi nền kinh tế tiêu thụ năng lượng vô lối (đường dây leo lung tung, từng chùm ở các đường phố; không có tiêu chuẩn xây cất nhà… ), nếu tính toán lại nhu cầu điện năng thực tế, có thể Việt Nam sẽ không cần cầu viện tới ĐHN.

Cũng như tôi đã nêu trên, để đảm bảo sự vận hành an toàn của những LPUHN, nguồn nhân lực liên quan đến công nghệ ĐHN phải được đào tạo một cách bài bản trong mọi chuyên ngành với văn hóa trách nhiệm chuyên ngành cá nhân và tập thể, đảm bảo chất lượng và tuân thủ một cách triệt để những tiêu chí kỹ thuật vận hành và bảo dưỡng.

Các yếu tố sau đây có tính chất quyết định đến việc đảm bảo an toàn cho ĐHN

1- Hệ thống luật pháp hoàn chỉnh và mang tính khả thi cao nhất .

2- Cơ quan giám sát có tính chuyên nghiệp cao và nhiều kinh nghiệm .

3- Nguồn nhân lực đủ về số lượng và cao về chất lượng .

4- Nhà máy ĐHN được thiết kế và xây dựng theo các tiêu chuẩn an toàn cao nhất hiện nay, đặc biệt là sau sự cố Fukushima.

Từ đây đến năm 2025, Việt Nam phải có ít nhất 2000 chuyên viên trong mỗi chuyên ngành để có thể hỗ trợ một cách an toàn cho Đề án nhà máy ĐHN Ninh Thuận.

Theo tôi những tiêu chí và những văn hóa nêu trên, Việt Nam với tình thế hiện nay khó có thể đáp ứng được.

Bài học lớn nhất rút ra từ 3 thảm họa hạt nhân điển hình thế giới (Three Mile Island, Hoa Kỳ, 1979; Chernobyl, Ukraina, 1986 và Fukushima, Nhật Bản, 2011) đều cho thấy diễn biến và những bất cập gây ra các tai nạn đó một phần lớn là do con người và các cơ quan liên quan, do thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu văn hóa an toàn và thiếu văn hóa trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong quá trình vận hành nhà máy ĐHN ở tình trạng bình thường cũng như khi có sự cố.

Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!


Bích Ngọc (Thực hiện)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét