Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Toàn bộ tranh chấp của các quốc gia trên quần đảo Trường Sa

LTCGVN (25.09.2014)

1* Mở bài
Biển Đông dậy sóng là do Trung Cộng quậy phá tơi bời mà nạn nhân đầu tiên là Việt Nam và đau nhất là do người thầy tin cẩn, người đồng chí anh em trên 16 chữ vàng và 4 tốt giáng cho quý đồng chí Hán ngụy những đòn nháng lửa xiểng niểng.
Tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa gồm có: Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và thủ phạm gây ra cớ sự chính là Trung Cộng.

2* Tổng quát về Quần đảo Trường Sa (Spratly Islands)
Quần đảo Trường Sa là một nhóm đảo có hơn 148 đảo nhỏ, gồm các đảo san hô, đảo đá ngầm, bãi cạn, cồn, nằm rải rác rời nhau trên một diện tích biển gần 410,000 Km2.
Đường dài trên biển 926 Km. Quần đảo nầy nằm ngoài khơi ngang hàng với những tỉnh của Nam bộ VN, từ Sàigòn đến Cà Mau. Chưa có hải cảng nào nhưng đã có 4 đường băng trên các đảo.
Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một số thủy thủ từ Âu châu ghé vào quần đảo nầy, trong đó có thủy thủ tên Richard Spratly, cho nên quần đảo nầy mang tên tiếng Anh và được quốc tế công nhận.
Vì có hơn 100 hòn đảo rời rạc nhau cho nên ngư dân các nước trong vùng biển Đông đến đó khai thác hoặc cư trú, vì thế, hiện nay có nhiều nước xác định chủ quyền của mình trên quần đảo Trường Sa nầy.
Việt Nam, Đài Loan và Trung Cộng, mỗi nước tuyên bố chủ quyền của mình trên toàn bộ quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, Brunei, Philippines và Malaysia mỗi nước tuyên bố chủ quyền một phần của quần đảo.
Mỗi nước tranh chấp đưa quân đội của mình đến đóng từng phần của Trường Sa. Riêng Trung Cộng, ngoài tài nguyên thiên nhiên của khu vực, Trường Sa còn là một vị trí  chiến lược để kiểm soát con đường hàng hải quốc tế nối liền Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương, thông qua eo biển hẹp Malacca, nằm giữa 2 đảo của Indonesia và Malaysia, cho nên TC cố chiếm cho được quần đảo nầy. Đó là TC cho tàu chiến đến bảo vệ và cho xây cất căn cứ quân sự, sân bay…Đồng thời, lập cơ quan hành chánh để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở tỉnh Hải Nam.
3*Trường hợp nào Đài Loan chiếm đảo Ba Bình ở Trường Sa
3.1. Ba Bình thuộc nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam
Năm 1932, Pháp chiếm đảo Ba Bình và xem nó là một phần của lãnh thổ Việt Nam dưới quyền cai trị của Pháp ở VN.
Trước thế chiến 2, Pháp xây một đài quan trắc khí tượng ở Ba Bình. Đài nầy thuộc tổ chức khí tượng quốc tế, nên nó là bằng chứng Việt Nam có chủ quyền trên hòn đảo nầy.
3.2. Trường hợp nào Đài Loan chiếm đóng Ba Bình ở Trường Sa?
3.2.1. Trường hợp 1
Trong thế chiến 2, Nhật chiếm đảo Ba Bình làm căn cứ tàu ngầm mà Bộ chỉ huy đặt tại thành phố Cao Hùng, ở phía Nam của đảo Đài Loan, cho nên mọi liên lạc quân sự của Nhật ở Ba Bình đều thuộc về bộ chỉ huy quân sự của Nhật ở Đài Loan, xem như sát nhập Ba Bình vào Đài Loan về mặt quân sự.
Năm 1946. Sau khi bị bại trận, Nhật trả Ba Bình cho Đài Loan, mà trong thời gian đó, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch còn quyền cai trị trên toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, và Ba Bình được đặt dưới sự quản lý của tỉnh Quảng Đông.
Năm 1949. Mao Trạch Đông lên nắm quyền cai trị trên Lục địa. Trung Hoa Dân Quốc thua trận, chạy ra Đài Loan và kiểm soát luôn đảo Ba Bình cho tới ngày nay.
3.2.2. Trường hợp 2
Năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) của Tưởng Giới Thạch đưa 4 chiến hạm, phát xuất từ cảng Ngô Tùng, đến chiếm đảo Hoàng Sa ngày 29-11-1946. Chính phủ Pháp phản đối việc chiếm đóng bất hợp pháp đó của THDQ.
Ngày 17-10-1947, Pháp đưa chiến hạm Tonkinois đến Hoàng Sa, yêu cầu rút quân, nhưng THDQ từ chối. Pháp gởi một phân đội lính, trong đó có lính Quốc Gia VN đến đóng đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa)
Năm 1947.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 15-8-1945, Tưởng Giới Thạch được Hiệp Định Postdam giao cho quyền tước khí giới quân Nhật ở VN, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Họ Tưởng chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée-[Pháp]) cuối năm 1946, và chiếm đảo Ba Bình năm 1947.
3.3. Việt Nam làm chủ toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa
Năm 1950, Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 14-10-1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền quản lý Hoàng Sa, Trường Sa  lại cho chính phủ Bảo Đại. Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo chủ tọa cuộc chuyển giao quyền hành trên hai quần đảo HS/TS.
Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
Sau năm 1950, 2 quần đảo HS/TS không còn quân đội ngoại quốc nào đóng trên đó cả, mà chỉ có Quân đội Quốc Gia của Chính Phủ Bảo Đại đồn trú trên đó mà thôi.
Năm 1956 Trung Hoa Dân Quốc trở lại chiếm đảo Ba Bình cho đến hiện nay.
Theo Hiệp Định Genève năm 1954, 2 quần đảo HS/TS ở dưới vĩ tuyến 17, nên thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.
4* Đảo Ba Bình do Đài Loan quản lý
4.1. Tổng quát về đảo Ba Bình
Ba Bình là tên do VN đặt. Tên quốc tế là Itu Aba và tên Đài Loan là Thái Bình.
Ba Bình là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa.
Chu vi: 2.8km. Diện tích: 43.2 hecta, có vòng đai san hô chung quanh đảo.
Chiều dài: 1.47km. Rộng: 500m. Độ cao trung bình so với mặt nước biển là 2.8m. Trên đảo có dừa, chuối, đu đủ, cây cọ cao 7m và nhiều bụi rậm.
Những xây dựng trên đảo:
- 1 ngọn hải đăng
- Các trạm thời tiết, trạm phát thanh
- Sân bay, giếng nước…
Ngoài đảo Ba Bình, Đài Loan còn có quân trú đóng trên đảo Bàn Than (Ban Than Jiao) với những công trình xây dựng và phòng thủ.
4.2. Đài Loan đưa hỏa tiễn, xe tăng tới đảo Ba Bình
Ngày 12-6-2011, phát ngôn viên quân đội Đài Loan cho biết, họ sẽ triển khai tàu hỏa tiễn Seagull và xe tăng đến đảo Ba Bình, vì quan ngại lực lượng bảo vệ Ba Bình không đủ khả năng đối phó với những xung đột ở Biển Đông. Đồng thời 150 TQLC cũng dược điều động đến đó.
Đài Loan đang chiếm đóng đảo Ba Bình, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, đã không tham gia các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương liên quan đến vấn đề chủ quyền ở Biển Đông.
4.3. Đường băng trên đảo Ba Bình
Ngày 24-1-2008, phi cơ vận tải quân sự C-130 đáp xuống đảo Ba Bình. Đường băng bằng bê tông dài 3,800 bộ, rộng 100 bộ, được xây dựng năm 2005.
Ngày 2-2-2008, Tổng thống Trần Thủy Biển đến thăm đảo Ba Bình, mục đích xác định chủ quyền của Đài Loan trên đảo nầy.
Ngày 25-5-2014 hãng tin Reuters dẫn lời các quan chức Đài Loan cho biết họ sẽ bỏ ra 100 triệu USD để xây một bến cảng cho những tàu chiến có độ choán nước trên 3,000 tấn. Đồng thời nâng cấp đường băng từ 1,200m lên 1,500m.
Việt Nam phản ứng mạnh mẽ, nhưng chỉ là phản ứng lấy lệ mà thôi, vì không có kèm theo biện pháp trừng phạt hoặc trả đủa nào cả.
Các nước có đường băng trên quần đảo Trường Sa.
VN có đường băng ở đảo Nam Yết và Trường Sa Lớn.
Malaysia có đường băng trên đảo Đá Hoa Lau
Philippines có phi đạo trên đảo Song Tử Đông.
5* Philippines và quần đảo Trường Sa
5.1. Tổng quát về nước Philippines
Philippines là một quần đảo gồm 7,107 hòn đảo, trải dài 1,210 km, chia thành 3 nhóm đảo: Luzon, Visaya và Mindanao, trong đó 700 đảo có người ở.
Diện tích: 300,000km2.
Dân số: 87,857,473 người.
Thủ đô: Manila
Ngôn ngữ: Tiếng Tagalog và tiếng Anh.
Nhiều núi lửa đang hoạt động.
5.2. Philippines tuyên bố chủ quyền trên Trường Sa
Ngày 15-5-1956, một công dân Philippines tên Tomas Cloma tuyên bố thành lập nhà nước mới tên là Kalayaan. Nhà nước nầy trải ra toàn bộ phía Đông của quần đảo Trường Sa, tức là phía Tây của đảo quốc Philippines, gồm các đảo Ba Bình, Pagasa (Thị Tứ) và đảo Nam Yết.
Tháng 7 năm 1956, Tomas Cloma lập ra một thuộc địa, đặt thủ đô tại đảo Pagasa (Thị Tứ), mà Tomas Cloma là Chủ tịch Hội Đồng nhà nước Kalayaan. Hành động nầy của Cloma bị các nước xem là hành động gây hấn của Philippines về việc chiếm các đảo.
Sự phản ứng quốc tế xảy ra. Đài Loan, Trung Cộng, VNCH, Pháp, Anh và Hoà Lan lên tiếng phản đối. Hoà Lan phản đối vì họ coi Trường Sa là một phần của nước New Guinea là thuộc địa của họ.
Nhân vụ nầy, Đài Loan đưa hải quân đến đồn trú trên đảo Ba Bình.
5.3. Tổng quát về đảo Pagasa (Thị Tứ)
Pagasa là tên do Philippines đặt. Tên quốc tế là Thitu Island. Tên VN là Thị Tứ. Là một trong những đảo lớn của Trường Sa. Đảo được che phủ bởi những cây to và nhiều loại thực vật.
Dân cư: 300 gồm trẻ em. Binh sĩ: 40.
Một đường băng, một bến tàu, nhà máy lọc nước, nhà máy diện và một tháp truyền thông thương mại.
5.4. Philippines đang chiếm đóng đóng các đảo ở Trường Sa
Thị Tứ (Philippnes chiếm giữ)
Hiện nay, Philippines chiếm đóng trên 7 đảo, 2 bãi đá chìm và 1 đảo nhỏ:
  • Đảo Bình Nguyên (là tên VN), tên quốc tế là Flat Island.
  • Đảo Thị Tứ (Thitu island)
  • Đảo Loại Ta (Loaita island)
  • Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay)
  • Đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island)
  • Đảo Bến Lạc (West York island)
  • Cồn san hô Lan Can (Lankiam Cay)
  • Đảo Cá Nhám (Irving reef)
  • Đá Công Đo (Commodore Reef)
Đầu năm 1971, Philippines nhân danh Tomas Cloma gởi một công hàm đến Đài Loan, yêu cầu rút quân khỏi Ba Bình.
Ngày 10-7-1971, Tổng thống Ferdinand Marcos thông báo sát nhập 53 hòn đảo mà họ gọi là quốc gia Kalayaan, mặc dù cà Cloma và Marcos không chỉ rõ đó là những đảo nào. Người Phi chủ trương tuyên bố chủ quyền càng nhiều càng tốt.
Tháng 4 năm 1972, Kalayaan chính thức sát nhập vào tỉnh Palawan.
Năm 1977, Phi đưa quân đến đánh chiếm Ba Bình nhưng bị quân Đài Loan đẩy lui.
Năm 2005, một trạm điện thoại di động được xây dựng trên đảo Pagas (Thitu island- Thị Tứ) bởi công ty Smart Communications của Philippines.
Một lý do khiến cho Philippines tuyên bố chủ quyền trên các đảo đó vì nó nằm trong Khu Đặc Quyền Kinh Tế (EEZ) 200 hải lý của nước nầy.
6* Các đảo ở Trường Sa do Trung Cộng quản lý
Đá Vành Khăn do Trung Cộng quản lý
Trung Cộng chiếm 9 bãi đá chìm
  • Đá Châu Viên. Tên quốc tế là Cuarteron Reef). Chỉ có đá san hô, cao nhất 1.5m. Chiếm đóng năm 1988.
  • Đá Chữ Thập. (Fiery Cross Reef). Diện tích 8,080 dăm vuông. Mỏm đá cao 1m. Tất cả chìm xuống nước khi triều dâng. Xây 1 cảng hải quân bằng cách cho nổ san hô rồi dồn lại thành đống. Có 1 phi đạo, 1 trạm quan sát hàng hải.
  • Đá Ga ven. (Gaven Reef). Tất cả chìm xuống nước khi thủy triều dâng. Gồm một đụn cát và bãi đá ngầm. Trên mặt bãi đá, được xây trải ra một lớp xi măng làm nền. Nhiều căn nhà 2 tầng được xây trên nền xi măng. Con người ở tầng trên.
  • Đá Gạc Ma. (Johnson South Reef). Nằm cách bãi Đá Co Lin của VN 6km. Bãi đá chỉ nhô lên mặt nước khi thủy triều xuống. Chiếm năm 1988.
  • Đá Vành Khăn. (Mischief Reef). Chỉ có vài mỏm đá nhô lên khi thủy triều xuống, tức là khi triều lên thì bãi đá hoàn toàn chìm dưới mặt nước. Có một hệ thống phòng thủ bằng gỗ treo cao trên những cột trụ.
  • Đá Su Bi. (Subi Reef). Nằm cách đảo Thị Tứ (Thitu island) của Philippines 26km. Chỉ nhìn thấy, khi mực nước rút xuống. Trung Cộng xây nhiều căn nhà 3 tầng, bến tàu và một bãi đáp trực thăng.
  • Đá Ba Đầu. (Whitson Reef). Nhiều mỏm đá nhô lên mặt nước khi thủy triều xuống, tức là nước ngập toàn bãi.
  • Đá Huy Cơ. (Hughes Reef). Chỉ nổi lên khi triều xuống. Nhiều nhà treo để đóng quân. Chiếm năm 1988.
Trong trận “hải chiến” ngày 14-3-1988, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng (đến Thành Đô ngày 3-9-1990 xin làm khu tự trị thuộc Bắc Kinh) và Hải quân CSVN đã hèn nhát dâng một số đảo trên cho Trung Cộng.
Trung Cộng không có bằng chứng cụ thể và vững chắc nào để chứng minh là có chủ quyền trên các quần đảo HS/TS cả. Họ chỉ nói là lịch sử cho biết, thời nhà Tống thì 2 quần đảo nầy đã thuộc về Trung Hoa. Rồi đem những miểng chén, miểng sành không biết lấy từ đâu ra để cho biết rằng thời kỳ đó, đã có người Tàu sống trên các đảo nầy.
Thế mà tay VC Ung Văn Khiêm, chưa bao giờ trông thấy những “miểng sành” đó ra sao, mà cũng nâng bi “Theo những dữ kiện lịch sử của VN, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung Quốc”.Và ông Lê Lộc, thuộc Bộ Ngoại Giao VC cũng vuốt đuôi:”Xét về mặt lịch sử thì các quần đảo nầy hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Tống”.
Thật ra, những mảnh vở của đồ sành, đồ sứ mà TC trưng ra, có thể đúng là của các quan thái thú Tàu đã cai trị VN hơn 1,000 năm. Nếu căn cứ vào người Tàu có mặt ở lãnh thổ, lãnh hải VN làm bằng chứng là lãnh thổ đó thuộc Trung Hoa, thì có thể nói VN thuộc về nước Pháp, vì người Pháp cũng đã có mặt và sinh sống ở VN trên 80 năm.
7* Trung Cộng xây đảo nhân tạo để khống chế Biển Đông
7.1. Đảo nhân tạo
Đảo nhân tạo (Artificial island hoặc Man-made island) là một đảo do con người dùng đất, đá xi măng, thép, gỗ bồi đắp vào đảo có sẵn, mở rộng diện tích để biến đảo nhỏ thành đảo lớn hơn.
7.2. Trung Cộng xây đảo nhân tạo 5 tỷ USD ở Biển Đông
Tờ Bưu điện Hoa Nam (Hongkong) đưa tin, Trung Cộng sẽ xây một đảo nhân tạo 5 tỷ USD gồm một cầu cảng, một sân bay, các công trình xây dựng của một căn cứ quân sự bao gồm một văn phòng, một khu nhà nghỉ tập thể, một phòng thể thao và những kho chứa nhu yếu phẩm quân sự. Đảo nhân tạo nầy to gấp hai lần căn cứ Diego Garcia của Mỹ ở Ấn Độ Dương có diện tích 44km2.
Hãng tin Bloomberg cho biết Philippines đã công bố những ảnh chụp cho thấy Trung Cộng đang chuyển vật liệu xây cất đến đảo Gạc Ma (Johnson Reef). Một số học giả Trung Cộng thì cho rằng một đảo nhân tạo sẽ được xây ở Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef)
7.3. Ý đồ khống chế Biển Đông của Trung Cộng
Đảo nhân tạo phục vụ cho những công tác như: Tiếp tế cho tàu bè và các giàn khoan trong khu vực. Mở rộng sức mạnh quân sự để kiểm soát Biển Đông. Giúp cho chiến đấu cơ hoạt động lâu dài trong khu vực, vì các đảo trong Trường Sa cách lục địa quá xa, trên 1,500 dặm, đồng thời xây dựng một vùng nhận dạng phòng không ADIZ (Air Defense Identification Zone).
Vùng nhận dạng phòng không là vùng trời do một quốc gia tự ấn định và đòi hỏi phi cơ dân sự phải khai báo vị trí, “lý lịch” để nhận diện và chịu sự kiểm soát trước khi bay vào vùng trời đó. Nó không phải là không phận nhưng được coi như vùng bảo đảm an ninh cho một quốc gia, chống lại những tấn công bất ngờ bằng phi cơ.
Trung Cộng từng bước gia tăng sức mạnh quân sự ở Biển Đông và sẽ thành công trong việc kiểm soát vùng biển hình lưỡi bò, nếu như chiến lược xoay trục của Tổng thống Obama không được thi hành một cách có hiệu quả.
Đảo nhân tạo nầy là mối đe dọa trực tiếp đối với Việt Nam.
8* Philippines và Trung Cộng tranh chấp bãi cạn Scarborough
8.1. Tổng quát về bãi cạn Scarborough
Scarborough Shoal (hoặc Scarborough Reef) là một bãi san hô hình vòng tròn gồm nhiều đá ngầm và đá nổi cách vịnh Subic (Philippines) 198km, nằm trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.
Bãi đá nầy mang tên một thương thuyền buôn trà bị đắm ngày 12-9-1784, mọi người trên tàu đều thiệt mạng.
Bãi nầy được tạo thành bởi một chuỗi san hô hình vòng tròn, chu vi 55km, diện tích 150km2. Một vài hòn đá nhô lên từ 0.5m đến 3m. Nhiều rạn đá ngầm chìm xuống dưới mặt nước khi thủy triều lên.
Bãi cạn nầy cách đảo lớn Luzon của Phi 220km và cách Trung Cộng 800km.
Hiện tại, Đài Loan, Trung Cộng và Philippines tranh chấp về chủ quyền của bãi cạn nầy.
8.2. Tranh chấp bãi cạn Scarborough
1). Hai bên tranh cãi về chủ quyền trên bãi cạn Scarborough
Philippines cho rằng họ đã chính thức làm chủ bãi nầy từ năm 1965 bằng chứng là họ đã xây một hải đăng bằng kim loại trên đó. Hơn nữa, bãi nầy nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Công Ước về luật biển của LHQ.
Trung Cộng đưa ra tấm bản đồ cổ làm bằng chứng là bãi cạn nầy đã thuộc về Trung Hoa từ thế kỷ 13.
Bãi cạn nầy không có người ở. Trước tháng 4 năm 2012, Trung Cộng và Phi không có mặt thường trực ở bãi nầy. Ngư dân Việt Nam, Philippines và Trung Hoa đã từng đến khu vực nầy để khai thác hải sản.
2). Tranh chấp giữa Trung Cộng và Philippines về bãi cạn Scarborough
Từ những năm 2000 hải quân Phi đã ngăn chặn và bắt giữ những ngư dân Trung Hoa đi vào khu vực nầy.
Ngày 10-4-2012 soái hạm BRP Gregorio del Pilar ra ngăn chận tàu cá của ngư dân Trung Hoa nhưng bị 2 tàu hải giám của Trung Cộng ngăn cản.
Kể từ đó, tàu của chính phủ hai bên có mặt thường xuyên tại vùng Scarborough. Cuối tháng 5 năm 2012 Trung Cộng đưa 7 tàu hải giám và những tàu của Ủy ban Nghề cá bảo vệ cho tàu cá ngư dân gia tăng hoạt động đánh bắt cá mạnh hơn.
3). Trung Cộng chiếm bãi Scarborough
Tổng thống Benigno Aquino III tố cáo Trung Cộng đang xây 75 cột khối bê tông chuẩn bị cho công trình xây cất trên bãi cạn nầy. Bắc Kinh bác bỏ cáo buộc và khẳng định chủ quyền không thể chối cãi được của họ trên bãi cạn Scarborough.
Tháng 4 năm 2014, Trung Cộng xử dụng sức mạnh kinh tế: cấm du khách đến Phi và áp dụng những biện pháp kiểm tra ngặt nghèo lên việc nhập cảng chuối, mặt hàng chủ yếu xuất khẩu của Phi.
Giữa tháng 5 năm 2014, căng thẳng bắt đầu giảm dần. Trung Cộng dỡ bỏ kiểm dịch mặt hàng chuối, và Phi cử lại đại sứ đến Bắc Kinh. Hai bên thỏa thuận rút tàu ra khỏi vùng tranh chấp. Phi thi hành giao ước, nhưng trái lại, Trung Cộng chẳng những không rút tàu mà còn thiết lập chướng ngại vật ngăn cản tàu bè đi vào khu vực tranh chấp bằng cách dùng dây thừng buộc vào những cái phao đặt trước cửa ra vào duy nhất, giăng dây không cho tàu bè xâm nhập vào vùng tranh chấp. Trung Cộng chiếm quyền quản lý Scarborough từ đó.
Philippines đưa đơn ra tòa án quốc tế kiện Trung Cộng, nhưng nước nầy khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi được ở Scarborough mà họ đặt tên là Hoàng Nham, cho nên không tranh tụng, không tranh cãi.
9* Thoả thuận quốc phòng giữa Mỹ và Philippines (EDCA)
Thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng Mỹ-Philippines (EDCA) được ký ngày 28-4-2014 giữa Bộ trưởng Quốc phòng Phi Voltaire Gazmin và Đại sứ Mỹ ở Manila là Philip Goldberg.
(EDCA=The Enhanced Defense Cooperation Agreement)
Nội dung thỏa thuận là quân đội Mỹ sẽ luân phiên đóng quân và xử dụng những căn cứ quân sự của Phi trong 10 năm mà không phải trả tiền thuê như trước kia, đã trả mỗi năm 203 triệu USD cho căn cứ KQ Clark và căn cứ HQ Subic.
9.1. Nội dung của thỏa thuận không rõ ràng
Thỏa thuận chỉ là cái khung tổng quát. Khi ký thì Tổng thống Obama tuyên bố: “Mục tiêu của chúng tôi không phải là để chống lại và kiềm chế Trung Quốc. Mục tiêu của chúng tôi là bảo đảm quy tắc luật pháp quốc tế bao gồm các khu vực tranh chấp hàng hải”.
Hai điểm chính của tuyên bố là: quy tắc luật pháp quốc tế và tranh chấp hàng hải.
Người Phi tin tưởng rằng Trung Cộng không giải quyết tranh chấp thông qua luật quốc tế, và Mỹ không nhắc đến tranh chấp lãnh thổ, vì thế họ cho rằng Hoa Kỳ đang đi dây giữa Trung Cộng và Philippines. Xét ra Trung Cộng có nhiều quyền lợi cho Mỹ hơn là Philippines.
9.2. Những bất hòa trong quá khứ giữa Mỹ và Philippines
Philippines đã từng là thuộc địa (duy nhất) của Mỹ trong 48 năm (1898-1946). Sau khi trả độc lập lại cho Phi, hai bên ký hiệp ước năm 1951 Hoa Kỳ bảo vệ Phi. Đồng thời Mỹ thuê 2 căn cứ của Phi.
Năm 1992, nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ nổ ra và Thượng Viện Phi ra lịnh “đuổi” Mỹ ra khỏi hai căn cứ nói trên.
Do Thượng viện phản đối nên thỏa thuận EDCA ngày 28-4-2014 phải ký ở cấp thấp, không phải là một hiệp ước cho nên không qua tay thượng viện phê chuẩn.
Ngày 27-4-2014, tức là một ngày trước khi Tổng thống Obama đến Manila, các nhà hoạt động tổ chức cuộc biểu tình chống Mỹ và chống thỏa thuận EDCA.
Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Philippines trước kia được thể hiện qua vụ Trung Cộng chiếm Scarborough một cách ngon lành mà không thấy phản ứng rõ rệt nào của Mỹ.
9.3. Vì sao Mỹ không hợp tác quân sự toàn diện với Philippines?
Quân đội Philippines quá yếu. So với Việt Nam thì Phi còn kém rất xa, còn đối với sức mạnh quân sự của Trung Cộng thì Phi chẳng nhằm nhò gì. Nếu Mỹ hợp tác quân sự toàn diện với Phi thì chẳng khác nào đưa vai ra mang cái gánh nặng đánh giặc cho Phi mà rốt cuộc có thể không được một tiếng cám ơn nào cả.
10* Các đảo ở Trường Sa do Việt Nam quản lý
Việt Nam quản lý 7 hòn đảo, 16 bãi đá chìm và 3 bãi đá ngầm. Quân số trên các đảo là 2,000 và một số gia đình dân cư.
  • Đảo Song Tử Tây. (Southwest Cay). Cách đảo Song Tử Đông do Philippines trấn đóng 2.82km.1 ngọn hải đăng (1933), 1 đường băng, 1 toà nhà 3 tầng đề đóng quân.
  • Đảo Trường Sa. (Spratly island). Đảo lớn thứ tư của quần đảo. Cao 2.5m. Địa hình bằng phẳng. 1 chòi đá cao 5.5m, 1 đường băng, 1 cảng cá, một số công trình xây dựng và 1 trại lính.
  • Đảo An Bang. (Amboyna Cay). Một hải đăng (1995), một hệ thống phòng thủ chặt chẽ.
  • Bãi Đá Ngầm. (Barque Canada Reef). Dài 29km, Đỉnh cao nhất 4.5m. Các công trình quân sự được nâng cấp gần đây.
Ngoài ra, còn các đảo và bãi đá như:
Các đảo: Trường Sa Đông, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông.
Các bãi: Tốc tan, Thuyền Chài, Đá Cô Lin, Đá Núi Le, Đá Lớn, Đá Đông, Đá Lát, Đá Len Đao, Đá Núi Thi, Đá Tiên Nữ…
11* Những biến cố ở đảo Song Tử Tây
11.1. Tổng quát về Song Tử Tây
Hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây trước kia thuộc VNCH. Hai đảo cách nhau 2.82km, đảo nầy nhìn thấy đảo kia ở đường chân trời.
Năm 1959, chính phủ VNCH đổi tên hai đảo thành một tên là đảo Song Tử, sát nhập vào tỉnh Phước Tuy.
Hiện nay, Philippines quản lý đảo Song Tử Đông và VN quản lý Song Tử Tây.
Song Tử Tây tên quốc tế là Southwest Cay, một trong những cồn san hô lớn thứ sáu trong Trường Sa. Điểm cao nhất là 4m. vành đá bao quanh nổi bật khi thủy triều xuống. Đảo phủ phân chim và cây cối um tùm, trước kia là nơi đẻ của các loài chim.
11.2. Những biến cố ở Song Tử Tây
Những biến cố ở Song Tử Tây là một chuỗi những sự kiện thay cờ đổi chủ trên hòn đảo nầy, giữa hải quân VNCH với hải quân Philippines và với hải quân Cộng Sản Bắc Việt.
Năm 1933. Nhà cầm quyền Pháp đưa 3 tàu chiến: Alerte, Astrobale và De Lanessan đến thu thập các đảo Song Tử, nhập vào thuộc địa VN của Pháp.
Năm 1956. Pháp chuyển giao 2 đảo nầy lại cho VNCH.
Năm 1959. Chính phủ VNCH đổi tên 2 đảo thành một tên là đảo Song Tử, sát nhập vào tỉnh Phước Tuy.
Năm 1963. Thủy thủ 3 chiến hạm Hương Giang (HQ-404), Chi Lăng (HQ-01) và Kỳ Hoà (HQ-09)  của HQ/VNCH đến thiết lập bia chủ quyền trên 2 đảo Song Tử nầy.
Năm 1968. Năm 1968, lính Philippines chiếm 2 đảo Song Tử, Đông và Tây, mà họ gọi là Parola và Pugad.
1). Sự kiện tháng 1 năm 1974
Ngày 19-1-1974, Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH. Liền sau khi mất Hoàng Sa, VNCH mở chiến dịch Trần Hưng Đạo 48, bất ngờ chiếm đảo Song Tử Tây từ tay Philippines. Đó là lúc mà binh sĩ Phi từ Song Tử Tây kéo sang đảo Song Tử Đông để dự tiệc sinh nhật của viên chỉ huy đảo, ăn nhậu đàn đúm.
Khi quân lính Phi trở về thì thấy quân VNCH có vũ trang đang hát quốc ca ở Song Tử Tây, nên họ trở về Song Tử Đông. Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1974, HQ/VNCH hoàn tất hệ thống phòng thủ trên đảo. Chính quyền Philippines im lặng trước việc nầy.
2). Sự kiện tháng 4 năm 1975
Khi phòng tuyến Phan Rang bị vở, Song Tử Tây mất về tay CSBV, binh sĩ VNCH chạy sang Song Tử Đông của Philippines lánh nạn.
Sau 30-4-1975, toàn bộ lãnh thổ VNCH bị mất về tay CSBV, Trường Sa cũng chịu chung số phận.
12* Malaysia tuyên bố chủ quyền trên các đảo thuộc Trường Sa
Đá Hoa Lau    Sân bay quân sự trên đảo Đá Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa
Căn cứ vào Công Ước LHQ về Luật Biển, ấn dịnh thềm lục địa là 350 hải lý, Malaysia (Mã Lai) tuyên bố chủ quyền trên 12 thực thể địa lý, bao gồm đảo, bãi đá, nằm trong thềm lục địa đó.
Đó là đảo An Bang, đá Công Đo, đá Én Ca, đá Hoa Lau, đá Kỳ Viên, đá Sác Lốt, đá Suối Cát, đá Thuyền Chài, bãi Kiêu Ngựa, bãi Thám Hiểm, cùng với rạn vòng Louisa và Luconia.
Tháng 5 năm 1983 Mã Lai cho quân đội đổ bộ lên chiếm đá Hoa Lau. Năm 1986, 20 binh sĩ lên chiếm đá Kiêu Ngựa, một trung đôi chiếm đá Kỳ Vân. Năm 1987 quân Mả Lai chiếm đá Suối Cát. Bãi Thám Hiểm và Én Ca cũng hiện diện binh sĩ Mã Lai.
Tháng 3 năm 2009 Thủ tướng Abdullah bin Ahmad Badawi đến viếng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch ở đá Hoa Lau, đồng thời tuyên bố chủ quyền trên các thực thể địa lý nằm trong thềm lục địa của Mã Lai.
13* Brunei tuyên bố chủ quyền trên ba thực thể địa lý ở Trường Sa
Brunei (màu nâu)                        Quốc vương Sultan Hassanal Bolkiah
13.1. Về chủ quyền
Căn cứ vào Công Ước LHQ về Luật Biển, ấn định thềm lục địa là 350 hải lý, Brunei tuyên bố chủ quyền trên rạn vòng Louisa, bãi Vũng Mây và bãi Chim Biển. Tại Louisa Mã Lai đã dựng một ngọn đèn hiệu và tuyên bố chủ quyền ở đó. Bãi Vũng Mây là một bãi ngầm do Việt Nam kiểm soát. Như vậy Brunei tranh chấp với Mã Lai về rạn vòng tròn Louisa và tranh chấp với Việt Nam về bãi Vũng Mây.
13.2. Vài nét tổng quát về Brunei
Brunei là một quốc gia nhỏ, theo Hồi Giáo, gồm có hai đảo tách rời ra. Diện tích 5,765km2. Dân số 415, 717 (tháng 7 năm 2012). Thủ đô Bandar Seri Begawan. Độc lập ngày 1-1-1984.
Lực lượng quân sự gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh đóng trên toàn quốc. Một vài chiếc tàu tuần tiểu mua của Đức.
Tạp chí Forbes xếp Brunei là quốc gia giàu thứ 5 trên 182 quốc gia. Giàu nhờ dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên. Không có công nợ. Gia nhập LHQ ngày 21-9-1984.
14* Tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Cộng
Một mặt xây trường học ở Hoàng Sa, một mặt xây đảo nhân tạo ở Trường Sa, cho thấy Trung Cộng cố ý bám chặt vào hai quần đảo nầy. Do đó Trung Cộng không bao giờ từ bỏ hai quần đảo nầy. Mọi việc đặt vào sự đã rồi, không tranh cãi, không dễ gì thay đổi.
Hoàng Sa mất sau một trận hải chiến oanh liệt hào hùng, “kiên cường trong chiến bại”, trái lại Trường Sa mất chỉ là một kịch bản được dàn dựng để nhóm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng dâng biển đảo của khu tự trị lên cho chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Nhìn lại cái gọi là “hải chiến Trường Sa ngày 14-3-1988” thì thấy rõ ý đồ đó của Việt Cộng. Hải quân VC vô cùng hèn nhát trước kẻ thù cướp nước, xem như dâng đảo cho quan thầy.
14.1. Há miệng mắc quai, bút sa gà chết          
Ngày thứ hai 9-6-2014, tại LHQ, hãng tin AP tường thuật việc Phó Đại sứ Trung Cộng Vương Minh, yêu cầu Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon chuyển đến 193 thành viên của tổ chức nầy, văn kiện chứa “những tài liệu mà Việt Nam lâu nay “công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa”.
Rõ ràng là Trung Cộng dùng công hàm Phạm Văn Đồng và những lời tuyên bố công nhận HS/TS là của Trung Cộng.
Phạm Văn Đồng ký ngày 14-9-1958, bút sa gà chết. Giấy trắng mực đen con dấu màu đỏ còn sờ sờ trước mất. Vô phương chối cãi.
Những lời tuyên bố và những bằng chứng cụ thể như sau:
  • Ung Văn Khiêm tuyên bố
“Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
  • Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN:
… “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
3).  Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố:
“Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
4).  Năm 1960 và năm 1972 Hà Nội cho ấn hành hai cuốn Atlas.
Cuốn thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội biên soạn.
Cuốn thứ hai do Phòng họa đồ của Phủ Thủ tướng biên soạn.
Trong cả hai cuốn này đều ghi Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc.
5).  Báo Nhân Dân của Việt Nam số xuất bản ngày 16/9/1958:
“Ngày 14/9 Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”.
6). Sách Địa lý năm 1974
“Các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan của Trung Quốc, hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.”
7) Tháng 2 năm 1972, Cục Đo đạc và Bản đồ, trực thuộc Phủ Thủ tướng phát hành “Tập Bản đồ Thế giới”, trong đó Hoàng Sa và Trường Sa bị đổi tên là Tây Sa và Nam Sa.
8). Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ thì cũng vậy thôi!”. (Hết trích)
Như trên cho thấy không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả đảng và Nhà nước CSVN đã có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng.
Sự thật rành rành như thế. Vô phương chối cãi. Bút sa gà chết! Há miệng mắc quai.
14.2. Việt Nam luôn tỏ lòng biết ơn Trung Quốc vĩ đại.
Lãnh đạo đảng CSVN luôn miệng tỏ ra một lòng một dạ mang ơn Trung Cộng.
Nguyễn Tấn Dũng nói rằng “Việt Nam luôn luôn ghi nhớ sự giúp đở to lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong việc xây dựng phát triển kinh tế ngày nay. Khẳng định, chính sách trước sau như một của VN là tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt”.
Nguyễn Chí Vịnh tuyên bố: “Việt Nam không bao giờ dựa vào bất cứ một quốc gia nào để chống lại Trung Quốc. Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác phát triển, thì đâu có ai hơn được một Trung Quốc XHCN láng giềng, với hơn 1 tỷ 300 triệu dân, đang phát triển và có vị trí và uy tín ngày càng cao trên thế giới.”
 Có lẻ bây giờ các lãnh đạo Đảng tự cảm thấy vô cùng xấu hổ khi nhìn lại quá khứ lịch sử bán nước của họ.
15* Kết luận
Trung Cộng vừa mới chứng minh tội bán nước của đảng CSVN chẳng những tại LHQ mà còn yêu cầu phổ biến đến 193 thành viên của tổ chức nầy trên toàn thế giới. Trung Cộng đã đưa bằng chứng ra công luận, đó là sự thật, LHQ không phải là chỗ để nói chơi cho vui miệng.
Bây giờ mới thấy tình đồng chí XHCN nó xấu đến mức độ nào. Bây giờ mới thấy rõ Hồ Chí Minh và đảng CSVN thực sự đã bán nước cho ngoại bang. Đó là đưa cả thế hệ thanh niên sinh Bắc tử Nam làm việc tầm bậy. Đó là đánh giặc thuê cho Trung Cộng và Liên Xô, thống nhất đất nước để đưa cả dân tộc lên XHCN thật đúng là tầm bậy, vì CNCS đã chết từ lâu rồi.
Mua vũ khí thì phải trả tiền, số tiền 870 tỷ thiếu nợ từ 1954 đến 1975 là số tiền lớn, không có tiền thì phải cắt đất dâng biển trừ nợ.
Tóm lại, các đồng chí lãnh đạo hãy tự chất vấn lương tâm, thành khẩn nhận tội bán nước, thành thật khai báo, ăn năn hối cãi, và tự giải tán cái đảng ôn hoàng mắc dịch nầy, để cùng nhân dân “thoát Trung”. Thời gian làm tôi tớ như thế cũng đã đủ quá rồi.
Trúc Giang

0 nhận xét:

Đăng nhận xét