Kính gửi:
- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
- Các chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền và cộng đồng thế giới tiến bộ.
1/ Từ ngày 01-05-2014, Nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc đã đặt giàn khoan khổng lồ HD 981 tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thuộc lô 143, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý (221 km) và cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa 18 hải lý. Đến ngày 27-05, giàn khoan đã chuyển sang vị trí mới cách đảo Tri Tôn 25 hải lý và cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý. Đây là sự vi phạm rất trắng trợn chủ quyền của Đất nước.
Thực ra, việc di chuyển và lắp đặt một giàn khoan khổng lồ như vậy Trung Quốc đã tiến hành từ lâu, Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam không thể không biết nhưng đã chẳng hề có biện pháp đấu tranh ngăn chặn. Đến khi nó đã đặt được trong “nhà mình” rồi thì ngày 4-5-2014 mới cho phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam lên tiếng cách nhẹ nhàng và yếu ớt, thay vì đưa những nhân vật cao cấp hơn để mạnh mẽ phản đối và kêu gọi thế giới ủng hộ mình.
Đáp lại phản ứng yếu hèn đó của Việt Nam, Cục Hải sự Trung Quốc đã mở rộng phạm vi khu vực cấm quanh giàn khoan từ 1,6 km lên thành 4,8 km. Đồng thời, họ huy động hàng trăm tầu các loại bao gồm: tầu tên lửa, tầu quân sự, tầu tuần tiễu tấn công nhanh, để đối lại tầu chấp pháp, tầu cảnh sát biển, tầu kiểm ngư và tầu đánh cá của Việt Nam đang có mặt tại đây. Rõ ràng Nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc ngày càng lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải nước ta nhằm thực hiện mưu đồ xâm lược và đô hộ lâu đời của họ. Theo nhận định của các chuyên gia kỹ thuật quốc tế, ở lô 143 nói trên thực ra không có mỏ dầu khí, nên việc đặt giàn khoan HD 981 chỉ mang tính chất chính trị là quyết xâm phạm chủ quyền của Việt Nam.
2/ Do hành động trắng trợn này, nước ta nay lâm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, chủ quyền của Tổ quốc đang bị đe dọa nghiêm trọng. Đây là hậu quả của việc ông Hồ Chí Minh và các thế hệ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, kể từ khi thành lập năm 1930 đến nay, đã luôn dựa dẫm, cầu cạnh, lệ thuộc và thần phục Mao Trạch Đông cùng đảng Cộng sản Trung Quốc.
Họ đã coi nhẹ quyền lợi của Đất nước và Dân tộc, đến nỗi khi Chính phủ Bắc Kinh ra tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (trong đó bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) vào ngày 04-09-1958 thì theo lệnh của Hồ Chí Minh, ngày 14-09-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhanh nhảu gửi công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố đó của Chính phủ Trung Quốc.
Nên đến năm 1974, khi Trung Quốc đem quân đánh chiếm Hoàng Sa lúc bấy giờ thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã cố tình làm ngơ bỏ mặc. Sau này, chính Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam còn ngang nhiên thổ lộ: "Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý!" (xem Hồi ký của Trần Quang Cơ, Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Đến tháng 2-1979, khi Trung Quốc xua quân xâm lược vùng biên giới phía Bắc để gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học”, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tuy có phần nào mở mắt nhưng lúc thấy chế độ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, bộ sậu chóp bu Hà Nội gồm Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn, lại đến Thành Đô của Trung Quốc năm 1990 để tái khấu đầu, quy phục, tự quàng thòng lọng “16 chữ vàng” và “4 tốt” vào cổ Dân tộc ta, nhằm cứu vãn chế độ độc tài toàn trị của Đảng.
Kể từ đó, các Tổng bí thư kế nhiệm, từ Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh đến Nguyễn Phú Trọng, từng bước, từng bước càng nhân nhượng Trung Quốc về lãnh thổ và lãnh hải, như cho Trung Quốc thuê dài hạn trên 30 vạn hecta rừng đầu nguồn ở biên giới, khai thác bauxite ở Tây Nguyên là yếu điểm chiến lược, để cho hàng trăm ngàn người Trung Quốc rải khắp ba miền, thành lập những thôn làng phố thị, tô giới biệt khu cấm cửa người Việt, dành cho các nhà thầu Trung Quốc thực hiện hầu hết các dự án kinh tế lớn quan trọng, cho phép hàng hóa Trung Quốc tràn ngập và chiếm lĩnh thị trường Việt Nam... Nói tóm là tạo mọi điều kiện thuận lợi để Trung Quốc từng bước khuất phục nước ta.
Với đường lối ngoại giao thần phục Trung Quốc cách toàn diện và nhu nhược như thế, với chủ trương chỉ thương thuyết song phương về mọi chuyện đúng như Trung Quốc thâm độc đòi hỏi, mà không dám tìm đồng minh cùng cảnh ngộ khắp trong vùng để liên kết, tìm đồng minh đáng tin cậy khắp năm châu để tự vệ, nên đứng trước tình hình nguy kịch hiện nay, Việt Nam ta chưa bao giờ cô độc như vậy.
Bằng chứng là các nước ở Đông Nam Á đều thờ ơ với Việt Nam, vì trước đây khi Trung Quốc cướp những hòn đảo của Philippin và Malaysia, Việt Nam vì sợ Trung Quốc đã không dám lên tiếng, cứ “bình chân như vại”. Các nước dân chủ hùng mạnh khắp thế giới như Hoa Kỳ, Pháp, Nhật thì chủ yếu ủng hộ VN bằng lời, hay cùng lắm chỉ viện trợ một số vũ khí, chứ không thể nào liên minh quân sự với một quốc gia độc tài Cộng sản quy phục Trung Quốc vốn cũng Cộng sản độc tài. Thậm chí nước Nga, cách đây không lâu được Việt Nam coi là quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, nhưng trước vụ giàn khoan HD 981, Nga cũng ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí cơ quan thông tấn nước này còn lên tiếng bênh vực Trung Quốc.
3/ Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, đồng bào quốc nội lẫn hải ngoại đã sục sôi căm hờn đứng lên đấu tranh chống sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Vừa qua, trong nước đã xảy nhiều cuộc lẫn nhiều kiểu biểu tình chống quân xâm lược mà thiết tưởng cần phân định cho rõ:
- Ngày 11-5-2014, do lời kêu gọi của 20 tổ chức dân sự độc lập, có cuộc biểu tình của nhân dân tại Hà Nội, Sài Gòn và một vài thành phố khác với những khẩu hiệu dứt khoát lẫn mạnh mẽ: “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”, “Phản đối Trung Quốc xâm lấn lãnh hải Việt Nam”, “Hãy xứng đáng là Lãnh đạo đất nước”, “Trả tự do cho các tù nhân lương tâm yêu nước”, “Tẩy chay 16 vàng-4 tốt”, “Bảo vệ ngư dân Việt Nam”, “China back off”, v.v… Đoàn biểu tình tại Hà Nội -do được công an làm ngơ- đã có thể kéo gần đến sứ quán Trung Quốc để hô vang các khẩu hiệu phản đối.
Tuy nhiên, song song với cuộc biểu tình của dân, còn có cuộc biểu tình do Thành ủy và thành đoàn Sài Gòn tổ chức mà mục đích chủ yếu là “phá đám” cuộc xuống đường của các công dân yêu nước. Đông đảo thành viên Đoàn Thanh niên CS mang cờ đỏ, hát nhạc cách mạng, cầm loa phóng thanh, trương những khẩu hiệu trơ trẽn, lạc điệu và phản cảm như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước”, “Không lợi dụng biểu tình để xuyên tạc và kích động bạo lực”, “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “Chúng ta giữ hòa bình trên Biển Đông”, “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Ngoài ra, còn có cuộc biểu tình thứ ba của một số trí thức miền Nam, thuộc giới “đối lập trung thành”, tổ chức với sự cho phép của nhà cầm quyền và biệt lập với cuộc biểu tình tự ý tự động của nhân dân.
- Ngày 12, 13 và 14-5-2014, bỗng nhiên bùng lên các cuộc biểu tình bạo động đông người gây ra đổ máu, chết chóc, cướp bóc và phá hoại nhiều xí nghiệp tại hai khu công nghiệp ở Bình Dương và Vũng Áng (Hà Tĩnh). Theo chứng nhân tại chỗ lẫn báo chí lề trái và lề phải đưa tin, bọn đứng ra tổ chức các cuộc biểu tình bạo động này đã chuẩn bị từ trước, như có bản đồ khu công nghiệp, di chuyển toàn bằng xe máy, trang bị bộ đàm liên lạc, mang đủ dao kiếm, dùi cui và cả bom xăng. Chúng sắm sẵn cờ đỏ và áo đỏ với số lượng rất lớn, khi công nhân vừa ra khỏi cửa nhà máy để nhập đoàn biểu tình thì được phát ngay, thậm chí còn được phát tiền nữa.
Theo nhận định của nhiều nhà phân tích thời cuộc thì loại biểu tình này do bọn mật vụ Trung Quốc và nhóm cán bộ lẫn công an thân Tàu tổ chức, với mục đích đen tối là bôi nhọ các cuộc biểu tình ôn hòa chính đáng của nhân dân, đồng thời vẽ lên hình ảnh giới công nhân lẫn nhân dân Việt Nam như đám ăn cướp vô văn hóa, gây một ấn tượng rất xấu về Đất nước ta cho toàn thể thế giới, để giới đầu tư ngoại quốc dần dần rút khỏi Việt Nam, hòng làm cho kinh tế đất nước thêm kiệt quệ. Thật vậy, sau những cuộc biểu tình đó, Nhà cầm quyền Trung Quốc lập tức rút về bốn ngàn nhân viên doanh nghiệp của họ. Công ty Formosa của Đài Loan ở khu kinh tế Vũng Áng thì đòi chính phủ Việt Nam bồi thường hàng triệu đôla thiệt hại. Hàng chục ngàn công nhân mất việc phải trở lại quê nhà.
Đến ngày 18-5-2014, 20 tổ chức dân sự trong nước lại kêu gọi tổ chức biểu tình phản đối Trung Quốc, nhưng lần này Nhà cầm quyền Việt Nam lấy cớ là sợ bị bạo loạn, đã cho công an và bọn côn đồ tay sai đàn áp, đánh đập rất tàn bạo những công dân yêu nước xuống đường. Đáng lẽ phải cổ vũ, động viên thì tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN lại cố tình đè bẹp lòng yêu nước vệ quốc và ý chí kiên cường chống giặc của nhân dân. Chả trách nhân dân ngày càng coi những kẻ cầm quyền Ba Đình là bọn “hèn với giặc ác với dân”, “sói với dân cừu với giặc”, thậm chí là “giặc nội xâm”, “bè lũ bán nước”.
4/ Trước hành động xâm lược trắng trợn của Nhà cầm quyền Trung Quốc như thế, TBT Nguyễn Phú Trọng lẫn Hội nghị Trung ương 9 của Đảng họp từ 08 đến 14-05-2014 vẫn hoàn toàn không có một tuyên bố nào về sự kiện nghiêm trọng này. Ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh thì tuyên bố: “Đảng, Chính phủ và quân đội Việt Nam cực kỳ coi trọng phát triển đoàn kết và hữu nghị với Trung Quốc. Quân đội Việt Nam sẽ không áp dụng hành động làm phức tạp tình hình, sẵn sàng cùng với Trung Quốc duy trì, trao đổi về các vấn đề liên quan...”. Mới đây, tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 13 ở Singapore, ông còn ca bài: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt vẫn đang phát triển tốt đẹp…”. Phần Quốc hội nước CHXHCNVN, mãi 22 ngày sau hành động trắng trợn của Trung Quốc, mới dám lên tiếng nhưng vẫn tiếp tục luận điệu muôn thuở: “…Kiên trì đấu tranh gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, kiên trì bảo vệ, giữ vững quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc”. (Báo Tuổi Trẻ ngày 22-5-2014).
Chỉ có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 21-5-2014 dám tuyên bố tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tổ chức ở Manila Philippin: “Từ ngày 01-5-2014 đến nay, Trung Quốc đã sử dụng hơn 130 tàu, có cả tàu quân sự và máy bay bảo vệ để hạ đặt giàn khoan dầu vào vị trí sâu hơn 80 hải lý trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Đây là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Tuyên bố Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Hành động này của Trung Quốc đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông”. Trả lời phỏng vấn của hãng thông tấn AP, ông còn nói: “Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.
Báo chí lề đảng trích dẫn lời ông Dũng với niềm ca ngợi, một vài đài nước ngoài hoan hô ông. Nhưng những nhà phân tích am hiểu tình hình có kinh nghiệm về ông thì cho rằng: biết bao lần ông đã tuyên bố rất hay ho nhưng chẳng bao giờ đem thực hiện. Chính ông khi nhậm chức Thủ tướng Chính phủ vào ngày 27-6-2006 đã mạnh miệng thề thốt: “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu không chống được, tôi xin từ chức ngay”. Nhưng nay thì nạn tham nhũng ngày càng lộng hành, không sao chữa được. Trong thông điệp đầu năm 2014, ông đã đưa ra những lời ca và lời hứa rất tốt đẹp về dân chủ, nhưng cũng chính ông ta là kẻ đàn áp phong trào dân chủ ngày càng mãnh liệt và tàn độc (qua việc ra luật cấm cản tự do, bắt bớ các chiến sĩ nhân quyền, đàn áp các cuộc biểu tình yêu nước và khăng khăng duy trì chế độ độc tài độc đảng…). Ngoài ra, ông là kẻ bảo vệ cái gọi là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước” để cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên với nhiều tai họa ngày càng thấy rõ về kinh tế, văn hóa, môi sinh và an ninh quốc phòng v.v... Thái độ “nói một đàng làm một nẻo đó” cho thấy ông Dũng chỉ là một kẻ gian hùng, một tay hoạt đầu chính trị. Khi cuộc tranh giành quyền lực của giới chóp bu Cộng sản đang đến thời kỳ quyết liệt, ông hy vọng những tuyên bố mị dân của ông sẽ giúp ông nắm được quyền lực tối cao trong tương lai gần.
Trước tình hình trên, Khối 8406 chúng tôi tuyên bố:
1/ Toàn thể quốc dân, đồng bào cần thấy rõ âm mưu xâm lược của Trung Quốc để cùng nhau đoàn kết, phát huy lòng yêu nước, kiên quyết đấu tranh chống ngoại thù. Đồng thời cũng cần thấy rõ: do những sai lầm về ý thức hệ lẫn chiến lược, các lãnh đạo đảng CSVN từ trước đến nay đã luôn dựa dẫm, cầu cạnh, lệ thuộc và thần phục Mao Trạch Đông lẫn ĐCS Trung Quốc, khiến cho Tổ quốc VN lâm vào tình trạng cực kỳ nguy hiểm như hiện thời. Hơn nữa, kể từ sau Mật nghị Thành Đô năm 1990, tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN đã từng bước tự biến mình thành lực lượng nội xâm, hỗ trợ bọn ngoại xâm thôn tính Quê hương Dân tộc. Chính vì thế, đấu tranh chống giặc ngoại xâm phải đồng thời chống cả giặc nội xâm nữa.
2/ Chừng nào chế độ độc tài toàn trị của Đảng CS còn tồn tại trên Đất nước Việt Nam thì chừng đó Dân tộc ta vẫn còn phải chịu đựng những khổ đau, mất mát, hy sinh vô bờ, Đất nước ta vẫn còn chịu cảnh lệ thuộc Trung Quốc và đại họa mất nước vẫn còn rình chực.
Vì thế, trung thành với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006, Khối 8406 trước sau như một chủ trương tranh đấu thay thế triệt để chế độ độc tài toàn trị Cộng sản bằng một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng với hệ thống tam quyền phân lập. Chỉ có như thế mới động viên và huy động được sức mạnh toàn dân để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của Tổ Quốc cũng như đem lại tự do, dân chủ và nhân quyền cho toàn Dân tộc. Chúng ta kiên quyết chống mọi chế độ độc tài toàn trị, bất kể đó là chế độ độc tài tập thể hay chế độ độc tài cá nhân.
3/ Chúng tôi cho rằng chủ trương “Việt Nam không tham gia vào bất cứ liên minh quân sự nào” cũng như chủ trương “giải quyết tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải bằng thương lượng song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam” là một chính sách rất sai lầm và phản động của tập đoàn cầm quyền Đảng CS. Dân tộc Việt Nam vốn hiếu hòa nên sẽ không bao giờ gây hấn với một quốc gia khác bằng quân sự. Thế nhưng, để đối phó với dã tâm xâm lược và não trạng bành trướng của Trung Quốc thì việc Việt Nam liên kết với các nước khác có cùng số phận hay tham gia vào một liên minh quân sự hùng mạnh của các quốc gia dân chủ, để tự bảo vệ là điều cần thiết phải làm. Trung Quốc ngày càng hung hãn với Việt Nam, trong khi không dám làm điều tương tự với Hàn Quốc, Philippin, Nhật Bản… chính là do Việt Nam hiện nay không có chiến hữu chân tình, không có đồng minh quân sự! Hơn nữa, vấn đề tranh chấp biển đảo giữa Việt và Trung hiện nay cần phải được Nhà cầm quyền Việt Nam sớm đưa ra Tòa án quốc tế xét xử.
4/ Chúng tôi đòi NCQ CSVN phải điều tra kỹ và thông báo rõ cho công luận biết thế lực đen tối nào đứng đằng sau các cuộc biểu tình kèm bạo lực, cướp phá trong các khu công nghiệp ở Bình Dương và Hà Tĩnh vào các ngày 12, 13, 14/5/2014 vừa qua. Bởi lẽ đại đa số nhân dân và công nhân trong các khu công nghiệp nói trên đều nghi ngờ kết luận điều tra quá vội vàng của công an đồng thời tin vào khả năng có bàn tay lông lá của mật vụ Trung Quốc và những kẻ thân Trung Quốc trong bộ máy Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện tại.
5/ Chúng tôi đòi NCQ CSVN phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho mọi tù nhân lương tâm, những người yêu nước ra khỏi ngục tù. Không được dùng họ như những con tin khi bị thế giới tiến bộ lên án, chỉ trích về sự vi phạm các nhân quyền và dân quyền, hay khi cần mặc cả với quốc tế để có được những thuận lợi cho đảng về kinh tế hay chính trị. Đồng thời, đình chỉ ngay những hành vi đàn áp, khủng bố, đánh đập, bỏ tù những người đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của Tổ Quốc.
6/ Chúng tôi đòi NCQ CSVN không được một lần nữa lấy máu xương và mồ hôi nước mắt của Dân tộc ra để trả giá cho những sai lầm của Đảng trong quá khứ và hiện tại trong tình cảnh đất nước ta đang đứng trước một hành động leo thang xâm lược mới của Trung Quốc. Không được tiếp tục lợi dụng lòng yêu nước của toàn thể Đồng bào nhằm thực hiện cho mưu đồ bất lương cố hữu của Đảng là độc quyền cai trị đất nước muôn đời dưới sự che chở của quân thù xâm lược phương Bắc!
Làm tại Việt Nam ngày 5 tháng 6 năm 2014.
Ban điều hành Khối 8406:
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston– Hoa Kỳ.
Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và các tù nhân lương tâm khác đang ở trong lao tù Cộng sản.
Khối 8406
0 nhận xét:
Đăng nhận xét