LTCGVN (17.08.2012)
Từ trước tới nay, vấn đề gai góc
nhất của Thần học vẫn là mối quan hệ giữa sự dữ và Thiên Chúa “ Vấn đề sự dữ và đau khổ được nhiều người coi là lý luận mạnh mẽ nhất
để chống với sự hiện hữu của Thiên Chúa. Họ lý luận thế này = Nếu có Thiên Chúa
thì Người phải tòan năng. Nếu Người tòan năng
Người có thể chấm dứt sự dữ và đau khổ. Nhưng qua kinh nghiệm chúng ta biết rằng sự dữ và đau khổ vẫn tiếp tục một cách tàn nhẫn ngay cả không cân xứng hay không công bằng chút nào. Như vậy không thể
có một chủ thể tòan năng có thể ngăn chặn tất cả những điều này đừng xảy ra, bởi vì nếu có Người chắc chắn sẽ làm như vậy. Bởi thế Thiên Chúa
không hiện hữu” ( Dinesh D’ Souza - Vấn đề sự dữ = Thuyết vô thần ở
đâu khi có sự dữ xảy ra ? ). Chức năng của Thần học là để chứng minh sự hiện hữu
của Thiên Chúa và sự chứng minh ấy từ Kinh Viện học cho đến Kitô học đều đã thất bại. Sự thất bại
của Thần hõc là tất yếu bởi một lẽ đơn giản là vì Thiên Chúa không thể chứng
minh mà chỉ có thể tìm kiếm. Càng chứng minh lại càng đi vào chỗ quẩn để rồi cuối
cùng cho rằng Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa xuống thế làm người để phải chịu đau
khổ một cách bất công “ Trong thần học
Kitô giáo, Thiên Chúa trở nên một con người để gánh lấy tội lỗi của thế giới>
Đức Kitô đã chịu đau khổ một cách bất công theo cùng một phương cách như những người phải đau khổ một cách bất công nhưng ở một mức độ cao hơn.
Do đó đối với Kitô hữu chịu đựng sự đau khổ và sự dữ là chia sẻ nỗi thống khổ của
Đức Kitô một cách nào đó” (
Dinesh D’ Souza….. ) Chúng ta vẫn tuyên xưng và tôn thờ Chúa Giêsu là Đấng Cứu
Thế và quả thực Ngài là như vậy. Thế nhưng Ngài sinh xuống làm người chịu khổ nạn và chết là vì Thánh Ý Thiên Chúa chứ đâu
có phải do sự bất công của lòai người ?
Trong Vườn Cây Dầu Chúa Giêsu thốt lên lời nguyện cầu tha thiết “ Lạy
Cha, nếu có thể đuợc xin cất chén đắng này cho con, nhưng
đừng theo ý con mà theo Ý Cha. Ga 26, 39.
Chúa Giêsu chịu chết là để vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa và sự xin vâng ấy
Ngài đã thực hiện trong suốt cuộc đời tại thế
của Ngài. Có vâng theo như thế thì
Ngài mới là Đấng Cứu Thế đồng thời cứu đưuợc nhân lọai. Gọi Chúa là Đấng Cứu Thế hay Đấng Cứu Chuộc cũng đều đúng nhưng cần phải
hiểu ý nghĩa của chữ “ CHUỘC”,
nếu không sẽ như Thánh Anselmo “ ngài là người đầu tiên bác bỏ ý tưởng này, vì cho rằng
như thế là chấp nhận ma quỷ có
quyền trên chúng ta và điều đó không đúng
vì chỉ có một mình Thiên Chúa
mới có quyền trên con người” ( Lm B.V. Đọc - Đức Giêsu Kitô Hôm qua, hôm nay và mãi mãi ).
Cho rằng chỉ Thiên Chúa mới có quyền
trên con người còn ma quỷ thì không, đó
là do nơi ảnh hưởng
bởi thuyết Thần Tạo ( Thần Linh Tạo Hóa ) Cũng chính từ đây mà tất cả các luận điểm về Khổ Phụ thuyết , Ngộ
Đạo thuyết, Ảo Thân thuyết , Nhập Thể thuyết của Kitô học đã hòan tòan đi vào bế
tắc. Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc và thực sự Ngài
đã chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỷ bằng chính Giá Máu của Ngài.
Nói đến “ Chuộc” điều ấy ám chỉ
cho một cái gì vốn dĩ trước đó đã là của mình nhưng nay đã không còn nữa. Người
ta không ai lại đi chuộc cái không phải của mình. Người cha sẽ không chịu mất một số tiền lớn để chuộc
đứa con mà mình không hết lòng yêu quý, không phải máu mủ ruột thịt của
mình. Đức Kitô xuống thế chuộc tội cho
nhân lọai có nghĩa là Ngài “ Chuộc” lại
cái mà con người đã đánh mất và hiện đang
ở trong sự nô lệ trói buộc của quỷ ma. Cái phần đánh mất đó chính là “
Hình Ảnh” mà Thiên Chúa đã dựng nên ở
nơi mỗi một con người “ĐCT phán = chúng ta hãy làm nên con lòai người
như ảnh Ta và theo tượng Ta” Stk 1, 26.
Con người là Hình Ảnh Thiên Chúa,
do Thiên Chúa dựng nên nhưng do tội nguyên tổ mà đã mất. Adam, Eva ngay sau khi phạm tội thì đã
bị đưổi khỏi Địa Đàng và cũng kể từ đây
cái được gọi là con nguời mới được sinh ra “ Adam gọi vợ là Evà vì bà là mẹ của chúng sinh” Stk 3, 20 ) Là con của Eva cũng tức là con cái ma quỷ bởi vì bà là người đã ưng
chịu sự cám dỗ của Satan cố tình ăn trái cấm là
trái cây phân biệt “ Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn. Còn về cây biết điều thiện, điều ác thì chớ hề ăn đến vì một mai nếu ngươi ăn vào chắc là phải chết” Stk 2, 16 – 17
). Ăn là một hành vi cũng tức là làm, là
động tâm. Ăn trái cây phân biệt thiện ác
có nghĩa là làm là khởi tâm phân biệt. Tội nguyên tổ đích thị
là tội phân biệt thiện ác. Thế nhưng tại sao phân biệt lại là một thứ tội mà nếu phạm phải thì chết
? Để có thể hiểu cho ra nhẽ cái tội đầu
mối của muôn vàn giống tội này thì nhất thiết
cần phải tìm lời giải
ở nơi môn Duy Thức học.
I/- Sao gọi là
Duy Thức
Theo quan
điểm Duy Thức học thì muôn sự muôn vật trong vũ trụ này đều không thật có mà
chỉ là duy thức biến hiện. Nói chữ “ Duy”
nghĩa là ngòai Thức ra không có chi là “
Vật” hiểu như một tự thể. Chúng ta ai
cũng cho cái nhà là…nhà và đinh
ninh như thế nhưng thật sự đó chỉ
là một cái tên gọi mà nếu tách riêng gạch đi đàng gạch, ximăng đi đàng ximăng, sắt thép công thợ v.v.. thì còn đâu là nhà ? Suy từ cái nhà ra tòan thể vũ trụ vạn vật trăng sao, mặt trời, núi rừng, sông ngòi cây
cối người vật v.v…hết thảy cũng đều chỉ là những tên gọi. Tên gọi
đó chính là sự nhận biết cũng gọi
là Thức, có tám thức tất cả gọi là Bát Thức Tâm Vương đó là Nhãn ( Mắt
) Nhĩ ( Tai ) Tỷ ( Mũi) Thiệt ( Lưỡi) Thân ( Thân thể)
Thức (Ý thức) Mạt na
thức và Alạigia thức. Trong tám thức này lại phân làm ba = năm thức đầu gọi là Tiền ngũ thức gồm mắt tai mũi lưỡi và
thân. Với năm cái Thức này thực ra vẫn
chưa phải là Thức tức sự nhận biết nếu chúng không được phối hợp với Ý là thức
thứ sáu. Để cho dễ hiểu, xin được phân biệt giữa nhìn và thấy. Khi một quang cảnh
hiện ra trước mắt, nào là nhà cửa phố xá, xe cộ ngược xuôi, kẻ qua người lại tấp
nập thì đó chỉ mới là nhìn chứ chưa phải là thấy. Để được gọi là thấy tức sự nhận biết của mắt thì cần có sự phối
hợp của Ý thức tức thức thứ sáu là Thức hết sức quan hệ, không có nó thì năm giác quan kia chỉ là mù, nhìn mà không thấy, nghe mà không
phân biệt được tiếng trầm tiếng bổng, thanh thô v.v. Tuy quan hệ như thế nhưng lại là tội khi nó gắn
liền với thức chấp ngã tức Mạtna thức.
Khi nhìn và thấy có một cái nhà thì không có vấn đề gì cả nhưng nếu thấy và cho đó là nhà của tôi thì …tội liền sinh bởi
vì từ đây mà nảy sinh những cái thấy khác như thấy xấu, thấy đẹp, so sánh hơn
thua khen chê v.v.. Tất cả cái thấy phát
xuất từ “ Cái Tôi” ấy gọi là Thức chấp ngã tức Mạt na thức. Thức thứ bảy này còn gọi là Truyền Tống thức,
nhiệm vụ của nó chỉ là con thoi giữa thức thứ sáu (Ý thức ) và thức thứ tám tức Alạigia Thức. Thức thứ tám chính là một cái kho chứa những
gì mà thức thứ bảy đem vào bởi thế cho nên
nó còn có một tên khác là Tàng Thức. Tàng
tức kho tàng là nơi chứa nhóm tất cả mọi chủng tử thiện ác hoặc vô ký. Đọc sách, đọc kinh xem
phim, nghe nhạc hay hóng hớt v.v. hết thảy
đều được đem vào chất chưa ở nơi tâm , nó được ví như cái bị của người ăn xin đeo
sau lưng khi cần thì lấy ra dùng… Chấp chứa vào tâm gọi là Huân nhưng huân để rồi
lại khởi ra hiện hành gọi là Tập. Cái việc đem vào lấy ra đó gọi chung là Huân Tập. Tính chất huân tập
theo Duy Thức học là vô cùng quan hệ bởi vì nó quyết định cho tòan bộ sự thiện hảo hay ác dữ ở nơi con người. Hễ huân cái chi thì sẽ tập khởi ra cái đó. Con người sở dĩ
đạo đức hay bất lương ngu dốt hay trí tuệ là do nơi huân tập mà ra. Bởi đó mà sách Tam
Tự kinh mới nói “ Bản Tánh người ta gần
nhau, vì tập luyện mà xa nhau” ( Tánh tương cận, tập tương viễn ) Huân tập
là việc vô cùng quan hệ như vậy thế nhưng
tòan bộ sự huân tập, kể cả người huân tập ( Năng
) lẫn cái được huân tập ( Sở ) đều chỉ là Thức mà thôi. Do đâu mà nói người
huân tập và cái được huân tập đều chỉ là
Thức ? Những cái bị phân biệt ( sở ) chẳng hạn như núi non sông ngòi, đất đá rừng cây xe cộ, người
ngợm v.v.. chỉ là những cái biết do phân
biệt mà có thế nên gọi những cái biết ấy là Thức. Còn cái gọi là người huân tập ( Năng ) ấy cũng chỉ là cái Thức
do sự phối hợp của Ý với năm giác quan còn lại. Nếu không có núi non sông
ngòi…là cảnh vật bị phân biệt thì cũng không
thể tự đâu mà khởi ra cái phân biệt
( Năng ) được. Ngược lại nếu không có
mắt tai v.v.. là thức năng phân biệt thì
lấy gì phân biệt để mà nhận biết núi kia sông nọ ? Tòan bộ người biết ( Năng ) và vật bị nhận biết ( Sở ) đều chỉ là do Thức biến hiện nên gọi là Duy Thức Biến. Không phải núi mà thấy ( chấp ) là núi, không
phải sông mà thấy ( chấp ) là sông, đó là Thức biến. Không phải vậy mà thấy vậy đó là
Thức biến.
Có hai lọai
Thức biến, một là Nhân Duyên biến và hai là Phân Biệt biến:
a/- Nhân Duyên biến. Bất cứ “ Vật” gì cũng cần có đủ nhân duyên thì mới hiện hữu,
chẳng hạn như cái nhà là tập hợp của các duyên
gạch ngói, ximăng, sắt thép, công thợ v.v…Thiếu cái duyên ximăng thì thợ không thể xây tường, đổ tấm được v.v.. Mọi hiện
hữu trên cõi thế này như rừng cây núi
non nhà cửa thuyền bè … do thức huân tập vào Tàng thức truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền khẩu, bằng sách vở…thành tập quán
hoặc đức tin thế nên khi thức vừa móng khởi liền biết ( cho là, nghĩ là, tưởng
là ) núi, là sông là thuyền là Phật là
Chuá v.v..tất cả những cái nhận biết ấy đều phân thành hai, có người biết ( ngã ) và cái bị biết ( pháp )
chứ thật sự như đã phân tích đều là do Thức biến hiện mà ..có như vậy.
b/- Phân biệt biến. Nếu nhân duyên biến cần phải có nhân duyên mới hiện hữu thì phân biệt biến lại thuần chỉ là vọng tưởng phân biệt. Nghĩ tới cái nhà thì liền có cái
nhà nhưng đó chỉ là nhà trong vọng tưởng
và mặc dầu cũng có hình tướng to
nhỏ mầu xanh, mầu vàng nhưng đó chỉ là
nhà trong vọng tưởng. Cái nhà, sông núi rừng cây v..v. trong vọng tưởng ấy thuần túy chỉ là chủ quan ảo tưởng giống như đi
trong đêm tối đạp phải sợi giây lại tưởng là con rắn. Không phải rắn lại
tưởng là rắn, cũng vậy không có
Cái Tôi ( Ngã), không có vật ở ngòai tôi ( Pháp ) lại cho là có tôi, có vật. Đây
là một cái lầm chấp mang tính muôn thuở
của con người ( Câu sinh chấp ngã
) Chính cái lầm chấp Ngã, Pháp này mà đã khiến gây nên đủ muôn giống tội và một
khi tội đã được gây tạo thì không có cách gì tránh cho khỏi hậu quả của
nó là khổ đau chết chóc “ Tư dục đã hòai
thai thì sanh ra tội lỗi, tội lỗi lớn lên
thì sản xuất sự chết” Gc 1, 15 ) Sự “ Hòai
thai “ mà Thánh Giacôbê nói tới ở đây
chính là huân tập. Cứ huân cái gì thì sẽ
tập ( Khởi ) ra cái đó đồng thời nhân lên gấp nhiều lần “ Gieo gió gặt bão “ là như
vậy. Nhân lọai ngày nay tràn đầy sự dữ và khổ đau, đó không phải là vì Thiên Chúa
không hiện hữu nhưng tất cả là do con
người đã huân tập quá nhiều điều ác. Làm ác sẽ phải lãnh quả ác, có làm lành thì mới
hưởng được quả lành. Tuy nhiên để có thể làm lành lánh dữ thì nhất thiết cần phải
biết đến cái lý tại sao của nó như lời đức Khổng
phu tử nói “ Phải biết tại sao thì
mới biết được làm cách nào” Học Duy
Thức chính là để biết cái lý của việc sống
đạo, lý ấy đòi hỏi phải quay vào Bản Tâm hầu quán xét cái năng lực thiên biến vạn hóa ở nơi mình, sửa trị nó bắt nó phải biến hóa cách nào để chỉ đem lại phước hạnh chứ đừng gây
khổ đau cho mình cũng như cho người.
II/-
Con đường chuyển
mê khai ngộ của
Đạo Chúa
Rất khó để bác bỏ luận điểm về sự
liên hệ giữa Thiên Chúa và sự dữ khi còn chấp nhận Thiên Chúa cũng là một với Đấng Thần linh Tạo Hóa. Còn như thay Tạo Hóa bằng Tâm Tạo thì hòan tòan không có vấn đề gì. Sự dữ sở dĩ
có là do Tâm dữ tạo ra chứ chẳng có đấng nào ở ngòai ta tạo ra được. Tâm tạo đó chính là tính chất duyên khởi
, Tâm khởi điều lành sẽ có sự lành, tâm khởi điều ác sẽ có sự ác. Sách Minh Tâm
Bảo Giám – Thiên Thái Thượng Cảm Ứng viết “
Họa phúc không có cửa, tự nơi người rước lấy. Quả báo của điều thiện, điều ác
không khác nào như bóng theo hình. Cho nên lòng người nghĩ thiện thì thiện dù
chưa làm Cát Thần cũng đã theo bên cạnh.
người nghĩ ác thì ác dù chưa làm hung thần cũng đã ở sát ngay bên. Song làm ác
mà sau biết ăn năn sử đổi thì lâu ngày cũng sẽ gặp được quả lành và như thế gọi
là chuyển họa ra phúc vậy. Làm ác là
bởi nghĩ ác, làm lành là bởi nghĩ lành. Không ai nghĩ ác mà làm lành cũng như
nghĩ lành mà làm ác bao giờ. Bởi đó cho nên muốn chuyển họa ra phúc thì phải
chuyển ngay ở nơi cái sự nghĩ. Theo Duy Thức
học thì NGHĨ chính là tác ý, là khởi
thức. Mỗi người thường hay nhớ nghĩ những
gì mà mình đã làm, đã nghe, đã thấy đã đọc
v.v…Một lời nói của ai đó có khi từ mấy tháng trước tưởng chừng đã quên nhưng bất
chợt lại nhớ nghĩ tới để rồi hoặc vui, hoặc
giận v.v.. Thấy một bà cụ ăn xin ngồi trước cổng nhà thờ, về nhà nhớ nghĩ
lại thấy xót xa tội nghiệp v.v.. Sở dĩ chúng ta có thể nhớ nghĩ lại như thế là vì những việc thấy nghe, đọc …ấy đã được đem vào chất chứa ở nơi Tạng tâm để trở thành nghiệp. Tạng Tâm của người nào
thì chấp chứa nghiệp của người đó. Người
đời coi thường những việc thấy nghe, đọc
hoặc xem TV v.v.. nhưng thật ra nó vô cùng quan hệ đến cuộc sống an vui
hay bất hạnh của chính mình. Một thiếu niên mê chơi game, suốt ngày đầu óc chứa
đầy những hình ảnh bạo lực tàn sát … thì
chắc chắn có ngày sẽ gây án và trong thực tế đã có biết bao nhiêu trường hợp như
vậy. Một gã suốt ngày này tháng khác chỉ say sỉn rong chơi cờ bạc thì tương
lai tù tội nghèo túng làm sao tránh khỏi ?
Những sự nhớ nghĩ thì can hệ như thế, nhớ nghĩ cái gì sẽ có cái đó bởi đây là nguyên lý Duy Tâm
tạo cũng tức là Duy Thức biến. Chính con người đã tạo lấy vận mệnh của chính mình
thế nên nó phải hòan tòan chịu trách nhiệm chứ không thể đổ thừa tại số hay …ông
trời nào bắt tội. Tuy nhiên với bản chất vô minh, con người không ai ngòai những
bậc đại giác ngộ có thể tự vạch lấy đường đi cho mình. Đức Kitô xuống thế chính
là để vạch ra cho chúng ta con đường cứu
rỗi ấy “ Ta là đường, là sự thật và là sự
sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” Ga 14, 6. Chúa nói mình là đường, có
nghĩa Ngài muốn truyền dạy chúng ta phải
đi, phải thực hiện nó. Mặt khác con đường
ấy chẳng phải đường cụt hay là vu vơ nhưng nó có đích đến của nó là chính Đấng Cha. Đích mà mỗi một người trong chúng ta cần phải nhắm đến đó là Đấng Cha.
Thế nhưng Đấng Cha ấy lại chẳng hiện hữu ở bất kỳ nơi
đâu ngòai chính tâm hồn mình “Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và ở
trong lòng ngươi tức là Đạo Đức Tin mà chúng tôi rao giảng đây. Vậy nếu miệng
ngươi nhận Giêsu là Chúa Cứu Thế và lòng ngươi tin ĐCT đã khiến
Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu. Vì bởi lấy lòng tin mà được nên
công chính và lấy miệng thừa nhận mà được cứu” Rm 10, 8- 10.)
Đạo Chúa là đạo đức
tin nhưng đức tin ấy không phải là tin một
Đấng nào khác ngòai ra Đấng ở nơi mình, đó mới là đức tin chân thật. Tin Đấng ở
nơi mình là điều khó trong mọi điều khó, muốn được vậy thì phải có Đức Kitô dẫn
đường , vì vậy Chúa Giêsu mới nói không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Để cho đức
tin có thể khởi phát và mỗi ngày thêm tăng
trưởng thì ta cần phải “ lấy miệng mà thừa nhận Giêsu là Chúa”. Lấy
miệng thừa nhận tức ám chỉ cho tất cả những công việc bề ngòai như đọc kinh cầu nguyện tham dự Thánh lễ, làm việc
tông đồ, lần chuỗi Mân Côi, ngắm Đàng Thánh
Giá .. v.v..Mọi việc ấy đều tốt cả, càng thực hành nhiều bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. Thế nhưng nó cần phải được xuất
phát từ ở nơi Tâm. Cầu nguyện thì phải
quay vào bên trong mà cầu với Cha là Đấng ở nơi ẩn mật Ngài sẽ báo đápp cho” Mt 6, 6. Làm phúc bố thí thì đừng cho tay tả biết việc tay hữu làm ( Mt
6, 3 ) Tóm lại là làm bất cứ việc gì cũng phải làm với Tâm vô phân biệt, không còn
thấy có ta, có người, có vật. Còn thấy có ta ( Mình, Ngã ) mà làm thì việc làm ấy
đối với Chuá chẳng những vô ích mà còn có tội bởi vẫn còn ở trong mê. Phải vì Chúa ở nơi mình, nơi người mà làm thì
việc làm ấy dù nhỏ nhặt đến đâu cũng vẫn có giá trị rất lớn vì đó là làm vinh danh Chúa “ Vậy dù khi ăn, dù khi uống hay làm bất cứ việc gì anh chị em hãy làm tất
cả để tôn vinh Thiên Chúa” 1Cr 10, 31. )
Phùng văn Hóa.
Tác giả gửi trực tiếp cho Lương Tâm Công Giáo Việt Nam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét