Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

CHUYỆN NGÀY XƯA

Có những biến cố xảy ra trong đời, khủng khiếp tới độ ta không dám nghĩ tới. Hằng mấy chục năm qua, tôi chỉ mãi ám ảnh sự kinh hoàng của lần vượt biên mà quên lãng sự hiện diện của Chúa và Mẹ Maria cạnh đời mình trong giây phút sống chết ấy. Sáng hôm nay, trong tâm trạng cô đơn nơi bàn thờ trong Mùa Chay Thánh, tôi bỗng chợt nhận ra đã từ rất lâu: Chúa và Mẹ luôn âm thầm sánh bước bên tôi…
Tôi rời Sàigòn vào những ngày cuối năm 1979. Theo chương trình của người chủ tàu, chúng tôi sẽ ra đi bằng đường sông đến Đồng Tháp. Từ đây sẽ có đoàn ghe hướng dẫn qua biên giới Việt-Miên để tới bến Nam Vang. Từ Nam Vang sẽ có xe đón về một căn nhà bí mật. Thuyền vượt biên, được dấu ở bãi biển không xa đó, sẽ đưa chúng tôi đến Thái Lan.
Đoạn đường về các tỉnh miền Tây thật quá êm đềm. Đêm đó nhằm vào ngày trăng sáng. Tôi ngồi ngay mũi thuyền ngâm nga đoạn văn Hàn Mặc Tử:
"Sông, là một dải lụa bạch.
Không, là đường trăng trải chiếu vàng.."
Sóng nước đêm nay đẹp tuyệt vời khi lấp lánh những đường trăng chiếu rọi !
Thuyền ghé bến Đồng Tháp vào sáng hôm sau. Đến buổi chiều, bà chủ ghe làm thịt gà đãi tiệc, cười đon đả: "Ăn nhiều nghe ! Bửa tiệc cuối tại Việt Nam".
Suốt đêm hôm ấy, thuyền đưa chúng tôi đi Đồng Tiến, rồi đến những trạm cuối, trước khi vào biên giới Việt-Miên. Sau khi được đưa vào thủ đô Nam Vang, chúng tôi lại phải leo xe đi gần 8 tiếng đồng hồ nữa, đến một căn nhà có tầng gác ở tỉnh Cần Giọt. Chủ nhà dặn rằng khuya đêm nay mọi người sẽ hóa trang để ra biển. Đoạn đường sông đầy trăng và thơ, nên chẳng một ai băn khoăn về chuyến hải trình lắm thử thách đợi chờ.
Khuya ở đất Miên tối đen, hãi hùng. Đường ra mé biển đầy những dốc ụ, cây cối rậm rạp. Chúng tôi bước những bước hụt hẫng và chơi vơi trong bóng đêm. Gần hai tiếng đồng hồ, già trẻ lớn bé đã lê lết kịp tới bãi. Nhưng chiếc tàu mọi người chờ đợi như hứa hẹn của ông chủ tổ chức, chỉ là một chiếc thuyền nhỏ bé nẳm dấu trong đám lau sậy.
Sáu chục người trên một con thuyền bé tí tẹo làm sao đủ chổ ngồi, huống hồ lại nhét thêm một bà cụ già bị bệnh nặng nằm trên băng ca, chiếm cả tầng trên ? Thiên hạ chen lấn dẫm lên nhau. Tiếng chửi rủa đủ giọng, cung bậc thanh âm nhân loại: khàn, đục, the thé, chua ngoa, ma quái… như đâm thủng màn đêm. Không biết ai đã đẩy tôi vào góc nhọn của mũi ghe. Tôi nép sát mạn thuyền đụng phải cái bếp lò. Thiên hạ lại tống và đẩy, tôi lại yên phận ngồi trên cái lò không củi lửa và cong người xuống vì trần ghe sát gần đó.
Tàu bắt đầu chạy. Tiếng máy nổ xành xạch lẫn trong tiếng gió. Say ngất với hơi người và sóng biển, tôi vịn tay vào chân chiếc băng ca của bà già bệnh và cố chồm người lên. Sóng vỗ vào thật mạnh, con tàu càng chòng chành. Tôi lại bị đẩy vào vị trí cũ và ngất ngất, ngây ngây với viên thuốc say sóng. Trời hừng sáng, nắng ban mai chiếu vào mặt. Tôi cố chồm người lên mong đón chút khí trời, nhưng lại ngã vật ra, đầu nặng trĩu, lưởi tê dại vì khát nước...
Bóng một con tàu đang lướt sóng tiến tới, đó là tàu quốc doanh Việt Nam, có lá cờ đỏ sao vàng, nhắm hướng tàu vượt biên của chúng tôi. Vừa đến sát gần tàu chúng tôi, họ ném sợi dây thừng to, cột tàu chúng tôi vào tàu của họ. Sau đó, họ chạy xầm xập qua, tay giương nòng súng đe dọa. Các anh tôi cùng cánh đàn ông giơ hai tay lên, họ đã bị lột hết mọi thứ, chỉ chừa lại chiếc quần đùi. Đàn bà và trẻ em bị đẩy riêng vào một góc, bị vơ vét hết dây chuyền, vàng bạc.
Chỉ một loáng sau, cả hầm tàu đã bị thu tóm rất gọn gàng, tất cả hành lý, thức ăn, đặc biệt là xăng dầu, dụng cụ máy móc đều bị chuyển qua chiếc tàu quốc doanh. Khi người cán bộ cắt dây ra lệnh cho thuyền họ ra khơi trở lại, chúng tôi ngước mắt nhìn theo mà lo thắt ruột thắt gan, không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao ? Mãi đến khi bóng chiếc tàu quốc doanh xa dần, tài công của chúng tôi nhìn khắp con thuyền cười trấn an. Ông vịn tay lái, tiếp tục điều khiển con tàu theo hướng đã định. Tiếng máy nổ mà tôi ngỡ như… pháo xuân. Chúng tôi sắp bước vào hải phận Thái Lan rồi !

Như người mắc bệnh suyễn, âm thanh rè rè, đôi khi đứt đoạn của chiếc máy tàu báo hiệu sắp trở chứng bất thường. Có tiếng kêu dồn của mấy người đàn ông trên phòng máy: "Cái kéo, con dao cũng được". Cùng lúc đó là tiếng nổ dữ dội làm con tàu lao chao rồi bất động. Máy tàu đã chết ! Khói trắng từ hướng đầu máy bay phủ lên khiến ai cũng cay mắt.
Đây là vùng ven giữa Campuchia và Thái Lan. Đường vào hải phận Thái cũng không còn xa, nhưng hỡi ơi, máy đã chết rồi. Tàu đứng lại một chỗ nên mỗi đợt sóng lớn, cả thân tàu tưởng như sắp bị lật úp đi. Nước tràn vào các lỗ hổng nhiều hơn. Ông tài công lúng túng đưa mắt nhìn quanh. Nhìn xuyên chiếc băng ca có bà cụ già, tôi thấy chiếc áo đẫm dầu máy của một người nào đó đang đưa lên cao, phát phất cầu cứu. Biển bao la thật đáng khiếp sợ lúc này !
Gần hết một ngày, bà cụ già trên chiếc băng ca đã chết khô vì nắng. Cô con gái út của chị tôi la khóc vì phải uống nước tiểu sao mà đắng quá ! Những đứa bé Campuchia gào thét đòi về nhà. Các anh tôi sau một đêm kêu cứu, mệt và khát, nằm vật ra trên sàn. Bây giờ mọi người quyết định cứ thả thuyền cho trôi theo hướng gió. Chị tôi khóc, nhắc tôi và em đọc kinh Ăn Năn Tội. Tôi không muốn nghĩ đến cái chết, nhưng trong sự rã rời của thân xác, tôi vẫn tha thiết nguyện cầu, miệng khấn xin Mẹ Maria đoái thương, và một lòng trông cậy vào Thánh Tâm từ bi của Chúa Giêsu. 
Thế rồi bỗng dưng trong tận cùng của tuyệt vọng, tai tôi văng vẳng nghe tiếng máy tàu nổ phành phạch trở lại. Nước mắt tôi chảy giàn giụa trong tiếng reo vui của mọi người chung quanh. Phải chăng phép lạ đã xảy ra ? Chỉ bằng cái gõ mạnh từ chiếc kéo vào máy tàu của một anh thanh niên, tự dưng tiếng động từ đầu máy liền bật ra. Ôi, chiếc kéo sét rỉ bị bỏ quên trên sàn, giờ đây là sứ giả mang tin mừng đến những kẻ khốn khổ !
Trời mỗi lúc càng tối mà bờ xa cho thuyền cập bến vẫn biệt tăm ! Người tài công như mất hướng, ông cứ lái vòng vòng trong đêm vắng… Rồi bỗng có tiếng hét lớn vang lên giữa khoảng không: "Chết cha ! Rơi vào hoang đảo rồi ! Tất cả nhổm dậy, nhốn nháo. Máy tàu chết hẳn. Chẳng còn giọt xăng nào cho tàu chạy tiếp được nữa. Chung quanh là biển bao la, xa xa là rừng cây rậm rạp. Chúng tôi đã nhịn đói và khát cả mấy ngày, nên chẳng còn ai đủ sức mà tát nước hay vẫy khăn cầu cứu nữa. Chiếc tã trắng của con bà Campuchia treo hờ hững trên buồm, bay vô vọng trong gió !
Quả là thú dữ vẫn không dễ buông tha xác chết khi chưa hoàn toàn thối rữa. Môt chiều vào ngày thứ hai, khi mọi người đang thoi thóp, một chiếc thuyền đánh cá Thái Lan ghé qua. Họ ra điều kiện ba cây vàng. Rồi sau khi cướp giựt xong, lại cắt dây bỏ đi. Con tàu tội nghiệp của chúng tôi, thêm một lần nữa, chơi vơi trên biển khơi !
Đến xế chiều thì có một gia đình đánh cá đang trên lộ trình về bến. Chủ thuyền là người đàn bà gốc Việt định cư trên đất Thái. Bà vui mừng hét to bằng thứ tiếng Việt không được nói nhiều năm của mình: "Việt Nam hả ? Việt Nam thì tôi giúp ngay !” Sau đó bà ra lệnh lôi tàu chúng tôi về căn nhà gỗ dựng trên biển. Sau khi phân phát mỗi người một cái bánh nếp và nước uống, bà hứa hẹn sẽ liên hệ với chính quyền địa phương hôm sau.
Nắng chiều trên biển thật đẹp. Tôi và cô em lần theo cầu ngang, ra bãi cát trắng hít thở chút khí trời. Hai chị em hân hoan thả chân vào dòng nước trong xanh. Biển hãi hùng nhưng biển vẫn thật đáng yêu khi lòng ta ấm áp tình người và chứa chan hy vọng. Nhưng nào có ai hay, trên đám mây xanh dễ thương ấy đã có dấu hiệu của vầng mây đen vần vũ. Vừa quay lại vào nhà, cảnh tượng trước mắt khiến hai đứa chúng tôi run lên bần bật. Tất cả anh chị tôi và những người khác đều bị trói tay, lôi ra lục xét. Cả một đám cướp Thái Lan, không biết làm sao đánh hơi đuợc, ồ ạt xông tới. Chúng lục xét rất kỹ từng người lớn, trẻ em để vơ vét những của cải còn sót lại trên đám người vượt biên. Trước khi ra đi, một tên to lớn, mặt đầy râu ria, còn nhắn là rạng sáng mai sẽ quay lại giải quyết đám đàn bà, con gái.
Chưa đêm nào dài hơn đêm ấy. Chưa có khủng khiếp nào như khủng khiếp chờ đợi tai họa sắp giáng xuống. Bên ngoài, anh con trai nuôi của người đàn bà Việt-Thái cầm con dao lưỡi liềm ngồi canh cửa. Trong nhà, lũ con nít được cha mẹ dấu trốn trong lu. Mấy bà vợ bám sát vào ông chồng. Riêng tôi và đứa em tìm góc tối mà núp. Không biết làm sao có thể thoát hiểm khi chung quanh chỉ toàn là biển với biển. Đám người Campuchia trong đêm đã dẫn con cái họ lặn trốn dưới nước, chờ trời sáng thì chạy vào rừng. Anh cả đến cạnh chúng tôi dặn dò cầu nguyện. Anh bảo trời sáng một chút sẽ cùng nhau ra đi…
Trời vừa rạng sáng, cả đám chúng tôi men theo những sườn dốc, đạp đại lên gai cỏ để trốn bọn cướp. Đã bao ngày đói khát, không biểt vì phép nhiệm màu, hay là sức mạnh của tư tưởng phải thoát hiểm, mà tất cả mọi người đều bền bỉ leo lên hết dốc này đến núi nọ. Mười bảy người trong gia đình chúng tôi, trong đó có 5 em bé dưới 10 tuổi, đùm đề nhau vào rừng sâu từ sáng sớm mù sương, đến khi mặt trời chực xuống núi.
Chia ra từng nhóm, chúng tôi quấn mình trong đám lá cây rậm rạp, hay leo lên cành cây cao ẩn thân. Tám giờ, mười giờ, mười hai giờ, ba giờ rồi năm giờ chiều... sắp sửa hết một ngày. Mỗi lần đứa cháu nhỏ khóc, chị em tôi lấm la, lấm lét sợ run lên ! Mỗi khi nghe tiếng la hét của đám con gái người Campuchia, từ hướng núi nào đó vọng tới, tôi tưởng mình sắp ngất đi vì khiếp hãi !
Rồi khi rừng núi trở nên vắng vẻ, tưởng chừng như thú dữ đã no mồi về động ngủ say, thì bỗng sột soạt những bước chân dẫm mạnh trên đất. Lá cây xào xạc bởi những nhát dao cuốc lùa vào từng lùm cây. Rồi một con dao thật dài chém lia lịa vào gốc cây trước mặt khiến tôi rớt xuống ngã nhoài trên đất. Một người đàn ông to lớn tiến về phía tôi. Hoảng hốt, tôi lùi ra sau. Hai, ba người đàn ông cạnh đó, chụp mạnh tay tôi và lôi kéo đi. Tôi cố quằn người lại, đau đớn nhìn anh chị mình quì rạp xuống van xin.
Ba, bốn người đàn ông đen đúa kéo lôi tôi lên dốc núi cao hơn. Đứng ngay trên mỏm đá nhìn xuống, núi cao vời vợi và biển sâu dưới tầm mắt, ý nghĩ giải thoát đến với tôi ngay trong khoảnh khắc ấy. Chỉ cần trườn chân ra, thân xác bé nhỏ này sẽ rớt trên núi đá hoặc nằm sâu trong dòng nước mát lạnh, sẽ thoát được tủi nhục. Nhưng ngay khi chân phải vừa trườn ra mỏm đá cùng với ý định tự tử, tôi như thấy ánh mắt buồn vời vợi của Mẹ Maria và tim tôi lúc ấy chỉ thổn thức muốn khóc: "Mẹ ơi, con xin uống chén đắng Chúa ban !"
Và bỗng... cuống họng tôi như tuôn trào. Có chút gì đắng nghét trong miệng khiến tôi phải nôn thốc nôn tháo cả mật vàng, mật xanh, nôn đến nỗi như muốn ngất luôn. Cả một ngày không uống, không ăn, chẳng biết sao trong cuống họng cứ đầy những nước là nước. Tên đầu đảng hoảng hốt, hắn còng tôi lại chỗ mọi người đang ngồi khóc…
Mọi người kể lại sau này là chính tên đầu đảng đã kêu cậu con trai, con bà người Việt-Thái, liên lạc với Cảnh Sát Thái. Tàu Hải Quân nhận lệnh đến liền sau đó để chở 59 người còn lại về trại tâp trung. Chúng tôi được tạm trú tại hội trường Laemngob vài tuần đề lo thủ tục nhập trại. Hết lo nạn hải tặc trên đường biển ở chốn hoang vu này, lại lo dân đánh cá Thái mò vào mùng ban đêm. Nếu đêm khuya ấy, không có tiếng la hét trong giấc ngủ của ông anh họ ở mùng bên cạnh, thì số phận của em tôi sẽ ra sao, khi gã đàn ông đen đúa ấy chui vào, dùng con dao phay đe doa, lôi kéo con bé đi ?
Tháng hai Mùa Chay 1980, đoàn người chúng tôi bước khập khễnh lên những tầng cấp của trại tị nạn. Những ai không có nhà, được cho trú tạm nơi hội trường Công Giáo. Đó là căn nhà tre nền đất, do cha Đỗ Quang Châu và nhóm sinh viên Công Giáo xây dựng. Cha Châu lúc ấy vừa mới đi định cư tại Mỹ. Chẳng còn một xu, kiệt cùng tôi viết thư cầu cứu cha, dù chưa từng quen biết. Chính nhờ số tiền cha Châu gởi ngay đến mà chị em tôi mua được một mái tranh nhỏ với cái bếp cỏn con, chiếc ghế tre để tiếp khách thật dễ thương. Chúng tôi chính thức có nơi trú ẩn sau gần một tháng “bèo dạt hoa trôi”. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc khi nói với em tôi: "Đây là nhà mới của chúng ta !"
Dòng đời trôi mãi, thế mà đã hơn ba mươi năm. Tôi đã đi qua những năm tháng thanh xuân để chuẩn bị bước vào sân ga cuối của đời người. Chặng đường đời nào cũng có những hòn đá lớn, nhỏ, cũng có những đồi dốc phải leo. Những tưởng kinh nghiệm chịu đựng đã dạn dầy, thế mà khi gặp khó khăn, tôi cũng chới với mất niềm tin. Dù miệt mài cầu nguyện, nhưng sao cảm giác bơ vơ cứ bủa vây mãi trong tâm hồn ?
Năm nay cũng lại vào Mùa Chay 2014, hồi ức trở về, điệp khúc của bài Thánh Ca cứ vang vọng mãi trong tim tôi. Nó như ngọn gió bình yên thổi mát tâm hồn:
“And He will raise you up on eagle's wings,
Bear you on the breath of dawn,
Make you to shine like the sun,
And hold you in the palm of His Hand.”
Và rồi, khúc phim Vượt Biển mấy chục năm về trước, từng đoạn, từng đoạn bỗng dưng được trình chiếu. Thật lạ, chuyện ngày xưa cũ mèm, khi hồi tưởng lại, vẫn sống lại trong tôi như in cái cảm giác của ngày ấy. Tôi nhớ mình run run đọc kinh sám hối, khi con thuyền lạc lối giữa đại dương. Tôi nhớ mình đã tuyệt vọng đứng trên bờ vực, khi sự sống và cái chết chỉ là tơ trời mong manh.
Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã không nỡ bỏ tôi. Ngài nâng tôi dậy sau mỗi thử thách nghiệt ngã. Khó khăn tôi kêu cầu, vậy mà được hạnh phúc, tôi đã quên mất cả lời tri ân ! Nhưng Thiên Chúa vẫn bao dung. Ngài luôn bên cạnh tôi, vỗ về an ủi… Ngài đến sát gần hơn khi tôi tột cùng hoang mang. Quá sát để tôi không thấy được chiếc bóng của ngài.
Như tâm tình của Mary Stevenson gửi trong tiếng thơ:
“You promised me Lord
That if I followed you
You would walk with me always
But I have noticed that during
The most trying period of my life
There have only been one
Set of footprints in the sand
Why, when I need you the most
You have not been there for me ?
The Lord replied,
“The time when you have
Seen only one set of footprints
Is when I carried you”.
Nguyện cầu rằng nếu một mai có phải lần mò trong đêm tối, tôi vẫn vững tin mà bước, vì có Chúa Giêsu, có cả Mẹ Maria luôn đồng hành với tôi trên mọi nẻo đường.

 TƯỜNG VI, 4.2014
Theo EPHATA 610

0 nhận xét:

Đăng nhận xét