Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Phòng CLHB: Bản án của Tòa án nhân dân Tp. Cần Thơ vi phạm pháp luật


Sài Gòn – “Sau khi nghe trình bày, xem tài liệu photo và đọc Đơn của Bà Lê Thị Sang, chúng tôi nhận thấy có vi phạm pháp luật trong Bản án; cụ thể là: Bản án nêu rõ Tòa án TP Cần Thơ thụ lý vụ án ngày 9/2/2011 mà đến ngày 22/3/2013 mới xét xử phúc thẩm, tức thời gian chuẩn bị xét xử là hơn 25 tháng, so với qui định cho phép tối đa là 5 tháng. Như vậy, Bản án vi phạm Điều 258 Bộ luật Tố tụng Dân sự”. Sự sai phạm này không dừng ở đây, mà còn được Văn thư Số 02-04/2013/VP-CLHB, do cha Đinh Hữu Thoại ký ngày 29.04.2013, gởi đến Ông chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Ông viện trưởng VKS tối cao tại Hà Nội, chỉ ra nhiều vi phạm pháp luật khác.
VRNs xin giới thiệu văn thư này đến quý vị.

——


Văn phòng Công Lý và Hòa Bình
 Dòng Chúa Cứu Thế – Sài Gòn
 38- Kỳ Đồng- Quận 3
 Số 02-04/2013/VP-CLHB                                                     
Kỳ Đồng, ngày 29/4/2013
  
  Kính gửi : – Ông Chánh Án - Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
- Ông Viện trưởng -Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
HÀ NỘI
  
THÔNG BÁO
V/V Phát hiện Bản án đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa Án TP. Cần Thơ vi phạm pháp luật.

Tôi là: Linh Mục ĐINH HỮU THOẠI
Trưởng VP Công Lý và Hòa Bình – Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.
Địa chỉ: 38 Kỳ Đồng, Quận 3. Email: conglyhoabinhdcct@gmail.com
Điện thoại liên lạc: 0938428634

Gửi đến Quí Ông nội dung trình bày sau đây:
l. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2013, Bà Lê Thị Sang, cư ngụ tại KV Hòa Thạnh, P. Thới Hòa, Quận Ô Môn TP. Cần Thơ có đến Văn Phòng chúng tôi trình bày và gửi kèm bản photo tài liệu, Đơn đề nghị xem xét Bản án Dân sự Phúc thẩm số 28/2013/DS-PT ngày 22/3/2013 đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân TP Cần Thơ (“Bản án”) theo thủ tục giám đốc thẩm mà Bà là đại diện theo ủy quyền của Bị đơn (Đính kèm Đơn).
2. Sau khi nghe trình bày, xem tài liệu photo và đọc Đơn của Bà Lê Thị Sang, chúng tôi nhận thấy có vi phạm pháp luật trong Bản án; cụ thể là:
2.1. Bản án nêu rõ Tòa án TP Cần Thơ thụ lý vụ án ngày 9/2/2011 mà đến ngày 22/3/2013 mới xét xử phúc thẩm, tức thời gian chuẩn bị xét xử là hơn 25 tháng, so với qui định cho phép tối đa là 5 tháng. Như vậy, Bản án vi phạm Điều 258 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
 2.2. Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường (Sở Tài nguyên và môi trường Cần Thơ) “trích đo địa chính”, trong khi Tòa án cấp sơ thẩm (huyện Ô Môn) đã có “trích đo địa chính” của Văn phòng đăng ký Quyền sử dụng đất Quận Ô Môn, và các số liệu giữa hai Hồ sơ trích đo này khác nhau, nếu xem đây là trưng cầu giám định, mà không có yêu cầu đo vẽ lại của một hoặc các Bên đương sự là vi phạm khoản 3 Điều 90 Bộ luật Tố tụng Dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2012. Chưa kể, thửa đất của nguyên đơn giáp ranh, liền kề với nhiều thửa đất khác, như vậy chỉ căn cứ vào diện tích đo đạc sử dụng thực tế của hai đương sự: nguyên đơn và bị đơn để buộc bị đơn trả đất cho nguyên đơn là chưa đủ căn cứ.
2.3. Trang 5 Bản án nêu: “Theo hồ sơ vụ án… phía bị đơn không có giấy tờ gì để chứng minh quyền sử dụng đất của mình…”, trong khi bị đơn đã giao nộp các Giấy xác nhận của Ông Ngô Văn Ứng 86 tuổi, Ông Lý Hồng, 90 tuổi, Ông Trần Song Ngọc 74 tuổi… Các xác nhận bị đơn sử dụng đất từ năm 1965 này đều có chứng thực của Chính quyền địa phương. Đáng chú ý là các Biên lai thu thuế nhà đất kèm theo Đơn xin xác nhận của bị đơn được Công an, chính quyền địa phương xác nhận: “có thực hiện thuế nhà đất hàng năm là thật”. Ngoài ra còn có xác nhận của Ông Lý Hồng là Chú ruột bị đơn, em ruột nguyên đơn được chính Bản án nêu tại trang 3… Như vậy, Bản án đã vi phạm Điều 81 và Điều 96 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
2.4. Việc Bản án không yêu cầu UBND Quận Ô Môn cung cấp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho nguyên đơn mà chỉ dựa vào kết luận tại công văn số 825/UBND-NC ngày 12/12/2011 của UBND Quận Ô Môn “ …việc cấp Giấy CN là đúng trình tự, thủ tục…” là vi phạm khoản 2 Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2012. Vì lẽ, nguyên đơn được cấp Giấy chứng nhận QSD đất số AH 842415 ngày 29/1/2007, tức thời điểm Thông tư số 29/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính đang còn hiệu lực, trường hợp này, theo điểm b khoản 3.6 mục 3 phần I: “…Khi đo vẽ bản đồ địa chính, đơn vị đo đạc dựa vào tình hình sử dụng đất cụ thể, ý kiến của những người sử dụng đất liền kề để xác định ranh giới thửa đất, lập bản mô tả về ranh giới thửa đất và gửi cho những người sử dụng đất có chung ranh giới thửa đất. Sau mười ngày kể từ ngày nhận được bản mô tả, nếu người nhận được bản mô tả không có đơn tranh chấp về ranh giới thửa đất thì giấy chứng nhận QSD đất được cấp theo đường ranh giới chung của thữa đất với các thửa đất liền kề như đã được xác định trên bản mô tả…” Như vậy, chắc chắn bị đơn đã không được có ý kiến và không được nhận bản mô tả về ranh giới thửa đất… theo đúng qui định.
2.5. Bản án bác yêu cầu phản tố đòi quyền sử dụng đất đã sử dụng liên tục, ổn định từ năm 1965 đến nay, có đóng thuế, được UBND xác nhận là vi phạm khoản 3 Điều 49 và Điều 50 Luật Đất đai.
2.6. Bản án tuyên buộc bị đơn giao trả 99,1 m2 đất cho nguyên đơn, trong khi nguyên đơn khởi kiện đòi 260 m2 và Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu này, nhưng Bản án không tuyên buộc nguyên đơn chịu án phí là vi phạm khoản 1 Điều 131 và khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Ý KIẾN: Từ nội dung trên, căn cứ qui định pháp luật hiện hành, khoản 2 Điều 284 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tôi Thông báo với Quí Ông đề nghị Quí Ông xem xét kháng nghị Bản án phúc thẩm 28/2013/DS-PT ngày 22/3/2013 đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân TP Cần Thơ theo thủ tục giám đốc thẩm.
 Kính Chào Quí Ông,
LM. Đinh Hữu Thoại
Trưởng Văn phòng
Nguồn: VRNs

0 nhận xét:

Đăng nhận xét