Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Các thánh tử đạo thăng hoa văn hoá Việt Nam- Bài 4: Tinh Thần Liên Đới Trong Thời Bách Hại




TINH THẦN LIÊN ĐỚI TRONG THỜI BÁCH HẠI


Trước khi là người công giáo các vị tử đạo đã là người công dân Việt Nam. Các ngài đã sinh ra, lớn lên, và nhắm mắt trong một giai đoạn bi đát của đất nước dài hơn ba thế kỷ: Về mặt lịch sử, đây là thời gian Nam Triều Bắc Triều (1527-1592), Bắc triều thuộc nhà Mạc và Nam triều thuộc vua Lê chúa Trịnh. Kế đến là thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1778), Đàng Ngoài (Bắc) thuộc chúa Trịnh và Đàng Trong (Nam) thuộc chúa Nguyễn. Sau đó là thời gian thống nhất sơn hà với nhà Tây Sơn từ 1788 và nhà Nguyễn nối tiếp từ 1802. Nhưng không bao lâu, dân ta lại phải đương đầu với quân ngoại xâm: chiến thuyền của Pháp đánh phá Đà Nẵng lần đầu tiên vào năm 1858… Về mặt xã hội, thì theo sử gia Trần Trọng Kim, ‘sưu cao thuế nặng, phu dịch liên miên, khiến dân tình nheo nhóc, nạn đói liên tiếp xảy ra khắp nơi. Lòng dân lại oán hận vì bao cảnh quan lại tham ô, càn quét’, và theo ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): ‘Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười, Có thời hơn hết mọi lời. Người, của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người’. ‘Còn bạc còn đệ tử, hết cơm, hết gạo, hết ông tôi. Xưa nay đều trọng người chân thật, ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi? Ở thế mới hay người bạc ác, Sang thì tìm đến, khó tìm lui’. Do đó, ông than thở: ‘Lòng người là bất tử, lẽ Trời không bao giờ mất, Đó là đầu mối của đạo nhân, là tột bực của trị bình’, ‘Dân mệnh vi chí trọng, tàn hại hà thảm khốc’ (Sinh mệnh của dân là rất trọng, cớ sao tàn hại thảm khốc đến thế!).



Trong một bối cảnh lịch sử và xã hội như vậy, chúng ta không quên công ơn của nhiều vị anh hùng ‘vì nước vì dân’ như Nguyễn Trãi (1380-1442) thắng quân Minh, Nguyễn Huệ (1778-1793) đại thắng quân Mãn Thanh, Nguyễn Công Trứ (1778-1858) vừa dũng cảm giẹp giặc vừa hăng say khai khẩn đất đai, cho dân chúng được an cư lạc nghiệp…



Chúng ta cũng không quên một khối lớn ‘anh hùng ẩn danh của dân tộc’ đã âm thầm, lấy đời sống ‘an bần lạc đạo’ để không những cùng với những vị anh kiệt quốc gia bảo vệ non sông gấm vóc, mà đặc biệt lấy đời sống lương thiện của người công dân bảo vệ và đốt sáng những gì là đạo đức, luân lý, phong tục của quê hương. Nói khác, họ ý thức được những điều sử gia Trần Trọng Kim viết lại sau này: “Phàm sự sinh tồn tiến hóa của một nước, là ở cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố gắng của người dân trong nước, vậy người dân cần học tập mà giữ cái tâm trí cho bền vững, thì chắc tương lai còn có nhiều hy vọng. Nước Việt Nam ta đã có nền văn hóa chẳng thua kém gì ai, vả lại có một lịch sử vẻ vang, nếu ta biết lợi dụng cái tiềm lực cố hữu và cái thông minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến hóa, thì sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm những trang lịch sử mỹ lệ hơn trước?” (1). 



‘Trong khối lớn anh hùng ẩn danh’ trên đây có nhiều người công giáo, đặc biệt có các ‘anh hùng tử đạo’. Các ngài sống đạo giữa lòng dân tộc, các ngài là chứng nhân của nền văn hóa dân tộc, là gương mẫu về nền luân lý nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, các ngài biểu dương tinh thần bất khuất, hiệp nhất, tự lập, tự cường… và liên đới hay tương trợ của người Việt Nam, đặc biệt trong mọi hoàn cảnh khó khăn của đất nước hay của đạo giáo.



‘Tinh thần liên đới của người công giáo trong thời bách hại’ là chủ đề của chương sách này. Chúng tôi muốn nêu bật hai điểm chính:



• Tinh thần liên đới với các vị Tử Đạo



• Tinh thần liên đới của các Thánh Tử Đạo.



I. TINH THẦN LIÊN ĐỚI VỚI CÁC THÁNH TỬ ĐẠO



Tinh thần cố hữu của dân Việt Nam là đại đoàn kết, gắn bó keo sơn. Ca dao, tục ngữ, những lời xưa còn truyền lại hoặc những chuyện cổ tích và giáo khoa đó đây, nêu bật tinh thần liên đới ấy. Chúng ta nêu lên mấy khía cạnh:



1. Liên đới của gia đình.



Để diễn tả tinh thần liên đới ruột thịt trong một gia đình hay một gia tộc, ông bà dạy: ‘Máu chảy ruột mềm’, ‘Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con’, ‘Anh em nào phải người xa, Cùng chung bố mẹ, một nhà cùng thân’ ‘Quyền huynh thế phụ’, ‘Chị ngã em nâng’, ‘Mất cha còn chú, mất mẹ bú vú dì’, ‘Máu loãng còn hơn nước lã’, ‘Họ chín đời còn hơn người dưng’, ‘Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh’… Trong sách Luân Lý Giáo Khoa Thư giải thích về Gia Tộc như sau: “Gia tức là nhà, thì có ông bà cha mẹ và anh em. Tộc tức là họ, thì bên nội có chú, bác, cô, thím, anh em, chị em con chú, con bác; bên ngoại có cậu, mợ, dì và anh em, chị em con cô, con cậu và đôi con dì. Vậy gia tộc là gồm tất cả những người cùng chung một máu mủ. Người một gia tộc ở với nhau, bênh vực và giúp đỡ lẫn nhau. Những cách ăn ở với nhau như thế, tức là bổn phận của mọi người ở trong gia tộc…” (2) 



Tinh thần liên đới trong gia đình và gia tộc của Việt Nam bắt nguồn từ đạo Hiếu, đạo thờ cúng Tổ Tiên, hay nói theo Giáo Lý Công Giáo, bắt đầu từ tình yêu của Chúa Ba Ngôi, từ điều răn thứ IV về Đức Hiếu Thảo, từ giáo huấn Thánh Kinh. Chẳng hạn sách Giảng Viên dạy: “Hai người, vì hai người làm việc sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã có người khác nâng dậy… Cũng vậy hai người nằm chung thì ấm… Một mình dễ bị tấn công, có hai người, ắt sẽ đương đầu nổi. Giây chập ba đâu dễ gì đứt” (Gv 14,9-12). 



Đọc chuyện các Thánh Tử Đạo, chúng ta có nhiều thí dụ sáng ngời về tình liên đới gia đình. Sau lời cầu nguyện cho nhau, chỉ cần một lời khích lệ đủ nâng đỡ sự can đảm của người thân ‘trên đường tử đạo’. 



• Ông Micae Lý Mỹ (+1838) đã nhận được sự liên đới của cả gia đình. Sử sách còn ghi lại: «Bà Lý Mỹ có lần bế con mới sinh được mấy tháng ra tỉnh thăm chồng cũng yên ủi khuyên bảo chồng chịu khó cho trọn, đừng lo cho vợ con làm chi. Vì nhờ ơn Chúa giúp sức thì em đây cũng có thể ra sức dạy dỗ chúng được. Con gái lớn ông tên là Mỹ, mới 12 tuổi, đi trộm mẹ ra tỉnh mất gần nửa ngày trời để thăm cha trong ngục. Nó phải qua 2, 3 lần cửa lính canh rất ngặt. Đến gặp ông, em thưa rằng: “Xin cha hãy chịu khó chịu chết vì đạo”. Đứa con trai ông lên 9 tên là Tường, nhỏ quá không lên thăm bố được, nên nhắn những người lên tỉnh thăm cha, thưa với cha rằng: ‘Xin cha đừng bỏ đạo, cứ vững lòng xưng đạo ra và chịu chết vì đạo, đừng lo đến chúng con làm chi’. Thật là một hồng ân cho ông, mọi người thân yêu đều có lòng tin mạnh mẽ, nên đều liên đới và chia sẻ với ông, đều khuyên ông can đảm vì Chúa…» (DMAH 2 tr.191) (3). 



2. Liên đới của vợ chồng.



Nhưng tình liên đới gia đình thắm thiết nhất chính là tình liên đới của vợ chồng. Thắm thiết không chỉ theo tình yêu vợ chồng tự nhiên ‘anh với em tuy hai mà một’, ‘vợ chồng là nghĩa tào khang’, ‘thương nhau là cùng nhau nhìn về một hướng’, mà còn thương nhau, gắn bó với nhau trong đức tin siêu nhiên. Tình yêu vợ chồng cùng nhìn về một hướng trọn vẹn: vì Chúa, vì Đạo Thánh, vì vợ chồng và vì con cái. Vợ chồng có thể nói với nhau ‘chúng ta là xương là thịt của nhau’ (xSt 5,1; 19,13), hay khuyên nhủ nhau như đôi bạn Tobia và Sara: “Chúng ta là con cháu của các Thánh, chúng ta không thể kết bạn như những người chư dân, không nhìn biết Thiên Chúa… Chúng ta thuộc dòng dõi những người biết ca tụng Thiên Chúa tới muôn đời” (Tb 8,5-6). Phải chăng chính trong tình yêu liên đới tràn đầy siêu nhiên mà bà Lý Mỹ đã khuyên chồng ‘can đảm đừng bỏ đạo, nhất quyết chết vì đạo’, hay như: 



• Ông Phanxicô Kam (+1722), trên đường ra pháp trường, thấy vợ đứng giữa đám đông khóc lóc rũ rượi, ông nói với bà: “Em ơi, nếu em đến đây chỉ để khóc thì uổng công quá, em hãy về nhà đi!”. Bà Kam can đảm thưa với chồng: “Anh ơi, xin anh hãy hiểu cho nỗi thống khổ của em, em khóc không phải vì than trách số phận, nhưng em muốn công khai tuyên bố rằng: chết vì đạo không phải là một điều bất hạnh. Đạo Chúa Trời buộc tất cả mọi người hãy yêu kẻ thù, phân phát áo quần cho những người không có, cho kẻ đói ăn. Anh chết vì luật thánh như vậy, không phải là điều phải xấu hổ, nhưng là một phần thưởng huy hoàng”. Nghe vậy, ông Phanxicô Kam phấn khởi vô cùng… Lập tức lý hình lôi ông ra chém đầu (DMAH 1, tr.159-160).



3. Liên đới của bà mẹ. 



Quả thật, ‘lòng mẹ bao la như biển thái bình’! Không chỉ ‘nặng nề chín tháng cưu mang, mặt thì tái mét võ vàng xanh xao, nằm trong như cắt như bào, bởi chưng khí huyết đúc vào thân ta’… mà ‘khi con biết lẫy biết ngồi, con ăn con ngủ con chơi con bò’. Lòng mừng, mừng lại thêm lo… lo ‘dạy đi, dạy đứng, dạy ngồi, dạy ăn dạy nói, mở môi tập rèn…’, lo ‘việc phần hồn trước: dạy làm dấu, kêu Giêsu, Thánh Mẫu, Quan Thày, kinh hằng ngày sự cần phải học, mẹ dạy con trần trọc hôm mai’… (Hiếu tự ca của cha Trần Lục). Tóm lại ‘con khôn tại mẹ’ cả về phần xác lẫn phần hồn. Đó là hình ảnh của các bà mẹ Việt Nam-Công Giáo. Hình ảnh này bộc lộ đặc nơi nhiều trường hợp ‘các bà mẹ có con hy sinh mạng sống cho Đạo Chúa’. Các bà liên đới với đức tin của con cái theo gương Đức Maria đi theo Con trên đường thương khó và đứng nhìn Con chịu treo trên Thánh Giá, rồi ẵm lấy thân Con khi tháo xuống mà khâm liệm. Quả thật, ‘Mẹ đứng gần Thánh Giá thảm thương, Thấy Con đớn đau Mẹ nát gan vàng, Đôi giòng nước mắt tuôn ròng ròng…’. Một hình ảnh khác không kém phần cảm động, đó là hình ảnh ‘bà mẹ của bảy người con’ trong sách Macabê 2. Bài này được đọc trong lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 24 tháng 11.



• Bà mẹ trong sách Macabê 2: “Hồi ấy có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ, vua Antiôkhô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moisê cấm. Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết trong nội một ngày. Thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà có nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người con, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà, tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi. Bà nói với các con bà: Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng luật của Người hơn bản thân mình…” (2Mc7,1-23). 



• Các bà mẹ Việt Nam liên đới niềm tin với các con tử đạo:



+ Bà mẹ của thánh binh sĩ Anrê Trần văn Trông (+1835): Được tin con bị án chém đầu, bà sốt sắng cảm tạ Chúa và bình tĩnh đi ra chợ An Hòa để gặp con lần cuối. Gặp con hỏi: “Con ơi, bấy lâu nay con ở trong tù, con có mắc nợ ai cái gì thì nói để mẹ lo trả cho họ”. - Cậu Trông thưa: “Con không thiếu ai cái gì cả, tiền nộp nhà tù và xích xiềng con đã thanh toán hết cả rồi”. Rồi hai mẹ con nói lời từ giã sau cùng. Ngoài pháp trường bà can đảm đứng yên cầu nguyện và chứng kiến việc lý hình theo lệnh quan chém đầu con trai… Tiếng chuông thứ nhất vừa dứt, đầu binh sĩ Anrê Trần Văn Trông đã rơi xuống đất. Mẹ cậu đứng đó, thấy đầu con đã rơi xuống đất, liền bẩm với quan là mình có công sinh ra nên xin được giữ cái đầu của con. Được quan cho phép, bà lấy vạt áo bọc chiếc đầu con đem về nhà. Còn thân nhân mang xác về Thọ Đúc. Trong sắc lệnh tôn phong 77 chân Phước (1900), Đức Thánh Cha Lêô XIII đã đặc biệt nêu cao tấm gương tử đạo của Anrê Trông như sau: “Trong các Đấng Tử Đạo Nam Kỳ có Anrê Trông thời danh không những vì chính ngài dũng cảm, mà mẹ ngài cũng anh hùng như con, vì bà đã bắt chước Đức Mẹ, chịu đau khổ, đứng bên cạnh xem con mình chịu chết, và khi con bị chém đầu rồi thì ôm đầu con trong lòng mình” (DMAH 2 tr.71-72).



+ Bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm mẹ của thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847): Vốn là một người mẹ đạo đức, vừa khi được tin ‘ông Gẫm có đức tin mạnh mẽ lắm’, bà vui mừng đến òa lên khóc. Một hôm bà giả dạng vào tù thăm con. Bà vừa khóc vừa khuyên nhủ con bền vững xưng đạo. Thấy vậy, ông Lê Văn Gẫm thưa với mẹ: “Mẹ đừng khóc làm gì, con được chết vì đạo thì mẹ phải sướng lắm chứ. Mẹ cũng đừng lo điều gì cho con, con chỉ xin mẹ lời cầu nguyện…”. Về sau, chính bà Nhiệm đã trả lời cho linh mục điều tra án phong Á Thánh như sau: “Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chịu chết thì không có phàn nàn, trái lại rất đỗi vui mừng, vì con chết như vậy sẽ được làm thánh” (DMAH 3, tr.47).



+ Bà mẹ của thánh linh mục Toma Đinh Viết Dụ (1839): Khi cha Dụ còn bị giam tù, bà đã giả dạng người hành khất đến thăm con. Thấy con khổ sở quá lại mang gông nặng trĩu. Bà khóc và muốn ghé vai gánh đỡ con một chút. Nhưng cha Dụ thưa với mẹ: “Xin mẹ cứ yên tâm, con yếu sức phần xác, song vì Chúa Giêsu thêm sức, con đủ sức chịu đựng. Xin mẹ cầu nguyện cho con…” (DMAH 2 tr 332). 



4. Liên đới của bạn bè.



Khi nói đến tinh thần liên đới của bạn hữu, người Việt Nam hay nhắc đến nhiều câu chuyện cổ tích phổ biến như ‘Lưu Bình Dương Lễ’, ‘Chim di và châu chấu’, ‘Bán tóc đãi bạn’, ‘Trọng nghĩa khinh tài’ (4). Thêm vào đó là những câu ca dao tục ngữ thật đẹp về tinh thần liên đới giữa tình bạn: ‘đồng cam đồng khổ’, ‘đồng tâm hiệp lực’, ‘đồng khí tương cầu’, ‘đồng thanh tương ứng’. ’Tương thân tương ái’, ‘học thày không tày học bạn’. ‘Bạn bè là nghĩa tương tri, sao cho sau trước một bề mới nên’, ‘Bạn vàng lại gặp bạn vàng, long, lân, quy, phượng, một đoàn tứ linh’. Tình bạn nhân bản trên đây nổi bật trong Thánh Kinh, đặc biệt trong sách Huấn Ca: ‘Trong tình bạn điều quan trọng nhất là phải giữ chữ tín, nghĩa là phải tin tưởng và thành thật. Giữ chữ tín với bạn bè, thực tế là khi họ lâm cảnh khó nghèo, hãy ở lại với họ, chia sẻ và giúp đỡ họ. Đừng khi vui thì vồn vã, khi buồn thì trốn chạy, khi giàu thì thân thiện, khi nghèo thì làm ngơ (Hc 37,1-6). Phải chọn bạn mà chơi, chọn người đứng đắn lương thiện, có lòng kính sợ Thiên Chúa’ (Hc 9,16). Như vậy, tình bạn nhân bản hay tình bạn tự nhiên giữa con người đã mặc lấy những đức tính siêu nhiên, đã trở thành tình bạn liên đới niềm tin. Điều này hiện lên rõ ràng dưới nhiều màu sắc trong chuyện tích các thánh Tử Đạo Việt Nam. Sau đây là mấy trường hợp tiêu biểu:



• An ủi và khuyến khích nhau: Tám giáo dân Qui Nhơn (+1701), tuy thuộc làng khác nhau, nhưng đã trở nên bạn hữu keo sơn trong cơn bách đạo…Tám người đó là ông bà Ven, ông bà Thanh, ông Miêu, ông Vinh, bà Sum và ông Khiết. Họ bị bắt và bị giam tù một tháng trước khi bị giải về kinh đô xét xử. Họ bị ném vào chuồng voi. Họ không ngớt lời an ủi và khích lệ nhau. Khi nghe tin về họ, một bà hầu của chúa Minh Vương lẻn đến chúc mừng và khuyến khích họ can đảm: ‘Tôi mừng anh chị em được ơn riêng của Chúa đến Kinh Đô xưng đạo và làm tăng số những tín hữu anh hùng...’ (DMAH 1 tr.82).



• Xin bạn giúp mẹ: Thánh binh sĩ Anrê Trần Văn Trông (+1835) trước khi ra pháp trường có anh bạn thân đến thăm, đã đề nghị với bạn: ‘Anh hãy ở với mẹ tôi, học nghề dệt cho thành tài và luôn thể giúp đỡ mẹ tôi. Xin anh nói với mẹ tôi rằng tôi đã được phúc trọng chết vì Chúa, xin mẹ an tâm làm việc nuôi xác và giữ đạo thánh Chúa. Còn tôi, mọi sự đã xong, tôi không lo lắng gì nữa’ (DMAH 2 tr.70).



• Xin các bạn cứ đổ lỗi cho tôi: Thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847) cùng các bạn tù ra khỏi toà án trở về nhà tù, đã vui vẻ nói với các bạn: ‘Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh để vững lòng chịu mọi sự khó. Dầu cho các quan có hạch hỏi thế nào, xin đừng ai trong các bạn nói lời gì làm khốn khổ kẻ khác. Hễ mũi dại thì lái chịu đòn, bất cứ điều gì, các bạn cứ đổ tội cho tôi là xong’ (DMAH 3, tr.43).



• Anh cứ yên trí: Thánh Micae Lý Mỹ (+1838) hớn hở đi ra pháp trường, gặp ông bạn thân tên là cả Thâu. Hai người thân nhau vì là anh em chú bác. Ông Thâu nói với ông Mỹ: ‘Anh Lý hãy vững vàng nhé!’. – Ông Mỹ trả lời: ‘Bạn cứ yên trí, tôi chẳng có sợ đâu’ (DMAH 2 tr.194).



• Tình bạn thật keo sơn! Emmanuel và Phanxicô Kam, hai người bạn đồng đạo cùng bị bắt (1723). Quan muốn đòi tiền để trả tự do. Emmanuel nộp tiền và được tự do trở về, đồng thời cũng xin nộp tiền thế cho Phanxicô nữa. Nhưng Phanxicô nhất định không chịu, anh cương quyết tuyên chứng: “Chỉ có luật Chúa Kitô là chí thánh và đạo Ngài là chân thật. Tôi sẵn sàng đổ máu ra để chuộc lại lỗi lầm và tuyên xưng đạo Chúa vượt trên các đạo khác”. Thấy bạn cương quyết như vậy, Emmanuel lớn tiếng cầu chúc: “Vậy này bạn, hãy can đảm và tuân theo ý Chúa nhé!”. – Phanxicô trả lời: “Cám ơn anh bạn. Tôi sẵn sàng chịu chết, tôi xin Emmanuel lo lắng giùm vợ con thay tôi” (DMAH 1 tr.159). 



5. Tình liên đới của cả họ đạo. 



Theo sự nhận xét của quan thượng Nguyễn Đăng Giai thì: tại các làng công giáo, người dân sống đoàn kết, tương trợ, đóng thuế rất sòng phẳng, không có trộm cướp hay làm loạn. Sáng chiều họ đọc kinh, cố gắng bảo nhau sống lương thiện… (x MAH 3, tr.59-61). Ở đây chúng ta chỉ nêu bật một điểm là những thể hiện liên đới cụ thể của các ‘họ đạo’ trong thời kỳ bách hại dành cho những người bị bắt bớ, là giáo dân, thày giảng, hay linh mục hoặc giám mục.



Đôi khi phải thú nhận, như ông bà thường nói ‘lệnh vua thua lệ làng’ và ‘vỏ quít dày có ngón tay nhọn’ nghĩa là lệnh cấm đạo càng gắt gao, giáo dân càng có những sáng kiến để tránh né, để đối phó, để bảo toàn đức tin, che chở người đồng đạo, cho trú ẩn các thừa sai và giấu cất các đồ thờ, hoặc giải thoát những người bị vua quan bắt… Họ cương quyết sống theo lời chỉ dạy ngàn đời của cha ông: ‘Hợp quần thêm sức mạnh’, ‘Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết’, ‘không thể bẻ đũa từng nắm’, ‘Tự lực tự cường’, ‘đồng sinh đồng tử’, ‘Vạn chúng nhất tâm’, ‘Quan nhất thời dân vạn đại’. Tình đồng hương như vậy đã trở thành cơ sở cho cách biểu dương đức tin, cho sinh hoạt họ đạo, cho đức bác ái tin mừng, cho hoạt động truyền giáo… Không tuyên bố rầm rộ, không viết thành văn, nhưng trong âm thầm của đời sống công dân đồng quê, người công giáo đã đốt sáng những tinh tuý của nền văn hóa quê hương. Nói theo văn từ hiện nay: người ta đã xây dựng những họ đạo văn hóa, xóm đạo văn hóa, trong đó văn hóa dân sự và truyền thống dân tộc quyện lấy văn hóa tin mừng, văn hóa niềm tin. Thật phong phú và sâu sắc những thể hiện văn hóa tình thương... Sau đây chúng tôi nêu lên những thể hiện liên đới trong họ đạo thời bách hại:



• Đoàn kết để sống vững đức tin: Năm 1687, có người tố cáo với quan là tại làng Va Vang có nhiều người công giáo và có cả nhà thờ. Quan cho lính đến vây bắt 32 trưởng gia đình công giáo. Cả 32 người quả quyết mình và gia đình đều là công giáo. Quan hỏi họ làm những gì ở nhà thờ. Họ trả lời là ‘đọc kinh cầu nguyện với Chúa Trời cho được mọi sự lành đời này và đời sau’. Quan bắt họ làm lại cho quan xem những gì họ quen làm ở nhà thờ. Họ quỳ xuống ngước mắt lên trời, làm dấu Thánh Giá và đọc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười Điều Răn và Mười Bốn Mối Thương Người. Nghe xong, quan nói: “Tôi thấy tất cả những điều này đều tốt hết. Dù vậy, vì có lệnh vua cấm, chúng ta không thong dong. Các ngươi biết có lệnh vua cấm đạo này, vì vậy các ngươi không được tỏ lộ ra ngoài. Lần này ta tha không đánh đòn, nhưng nếu bị bắt lần thứ hai, ta sẽ không tha nữa đâu”. Quan bắt mỗi người nộp chút tiền án phí rồi cho về (DMAH 1 tr.130). 



• Che chở người bị lùng bắt: Nhân có lệnh chúa Trịnh Tráng cấm đạo (1629), một quan trong vùng thấy cô Daria xinh đẹp, muốn bắt ép cô làm vợ lẽ trái luật một vợ một chồng của đạo công giáo. Cô liền bỏ làng trốn sang làng khác. Quan cho lính đến bắt cha mẹ và họ hàng để tìm ra nơi cô trốn. Nhiều người bị tra tấn và đánh đập tàn nhẫn, nhưng không ai chịu cung khai nơi ở của người trinh nữ đạo hạnh. Họ nhất trí trả lời cho quan: “Phản bội một người đồng đạo đã tín nhiệm nơi họ là điều bất nhẫn, giao người ấy cho quan để làm hại nhân đức cao quý lại là một tội ác nữa”. Quan cho lệnh dân lương đánh đập họ, nhưng cảm động về tấm gương hào hùng của họ, dân chúng chỉ phá nhà cửa sơ sài rồi để họ trốn đi. Cả sáu chục người trốn khỏi làng, và hứa với nhau trung thành với Chúa. Họ đã lên Kinh đô tìm gặp các cha và được một bà lớn trong thành bảo trợ, cho đất lập nghiệp (DMAH 1 tr.110) 



• Giấu cất các đồ thờ. Sự việc này là một thể hiện liên đới cụ thể tại các họ đạo hay tại các tu viện Mến Thánh Giá, hoặc các tư gia. Sách chép rằng, khi quân lính vây làng Kẻ Một để bắt cha Phêrô Nguyễn Văn Tự dòng Đa Minh (+1838), dân làng đã đem cha đi trốn kịp thời. Quân lính không bắt được cha Tự, nhưng tịch thu nhiều tràng hạt, ảnh tượng và áo lễ, đồ thờ… Vì thế họ bắt các gia trưởng phải ra đình làng để lấy khẩu cung (DMAH 2 tr.212). Thánh Trùm Năm (+1840) xứ Kim Sen (Quảng Bình) đã bị bắt vì họ đạo giấu cất nhiều đồ đạo (DMAH 2 tr.430). Năm 1840, bà Anna Thuận thuộc xứ Đa Phạn bị bắt vì cất giấu đồ đạo của cố Đoan (Charrier) (DMAH 2 tr.462).



• Đón tiếp và chứa chấp các thừa sai: Thể hiện tình liên đới này còn phổ biến và nguy hiểm hơn việc cất giấu đồ thờ. Nhiều sắc lệnh của vua chúa coi đây là một hành vi phạm pháp phải diệt trừ các thủ phạm. Phải chăng vì thế mà thánh nữ Anê Lê Thị Thành đã bị bắt, bị lên án. Sách chép: Hôm ấy, ông trùm Cơ đưa cố Lý trốn sang các nhà khác, nhưng không ai chịu chứa chấp, ông đành đưa cố vào vườn nhà bà Thành. Bà chỉ cho cố cái rãnh khuất sau bụi tre giữa nhà dòng và nhà bà mà nói: “Xin cố ẩn chỗ này. Đức Chúa Trời có gìn giữ cố thì cố mới khỏi bị bắt, bằng không, chúng bắt được cố thì cũng bắt con nữa, hai cha con sẽ bị bắt với nhau”. Nói xong, bà và con gái út tên là Nụ lấy rơm phủ lên chỗ cố Lý trốn. Nhưng ngay lúc ấy, quân lính trông thấy đã ập tới bắt cố Lý và bà Thành (DMAH 3, tr.25). Thánh Martino Thọ (+1840) bị bắt và bị trảm quyết vì giữ đồ đạo và chứa giấu cha Ngân (+1840); thánh Gioan Baotixita Cỏn (+ 1840) cũng bị bắt và bị xử trảm vì giữ đồ thờ và che giấu cha Thịnh (+1840). 



• ‘Đánh tháo’ mà không thành: Trong thời gian trốn tránh ở làng Xương Điền thuộc tỉnh Nam Định, thánh linh mục Dominicô Tước (+1839) bị Bát Phẩm đem quân đến vây bắt. Ông trùm Giám liền tổ chức dân làng đến ‘đánh tháo’: đàn bà đem các túi tro để phả vào mặt quân lính, đàn ông mang giáo mác ra đánh nhau với đồ đệ của Bát Phẩm. Vừa đến cửa nhà giam cha Tước, dân chúng la thét, nhưng cha Tước ra hiệu bảo họ yên đi để mặc cha. Ngài bảo ‘anh chị em làm thế này chỉ gây cái chết cho cha mà thôi’. Nghe vậy, quân lính của Bát Phẩm nảy ý định giết cha. Một tên lính cầm mác chém vào đầu cha Tước hai nhát. Cha Tước quỵ xuống vũng máu, lính của Bát Phẩm chạy tháo thân. Giáo dân băng bó cho cha Tước, nhưng cha đã an nghỉ khoảng một giờ sau đó (DMAH 2 tr.294). Một năm trước, thánh linh mục Vicentê Đỗ Yến (+1838) bị bắt tại giáo xứ Kẻ Sặt. Giáo dân Kẻ Sặt định chiêu mộ giáo dân về Hải Dương ‘đánh tháo’ cha. Nhưng khi nghe tin ấy, cha Yến cản ngay và đã bị bắt vào ngày 2 tháng 6. (DMAH 2 tr.133).



• Góp tiền liên đới: Trong thời bách hại, nhan nhản hiện tượng ‘quan tham lại nhũng’: nhiều trường hợp các quan đòi tiền trắng trợn, nhiều khi giáo dân tự nguyện góp tiền để ‘đút lót’, mong được ‘tự do sống đạo’ hay cứu một linh mục hoặc một giáo dân bị bắt. Chính các vị tử đạo không chấp nhận ‘sự hối lộ’ này. Dưới đây chỉ là mấy vụ tiêu biểu.



+ Tục ‘tiêu xưng’ Trong chuyện về thánh linh mục Philippê Phan Văn Minh (+1853) có ghi rằng “Các quan cứ vặn hỏi cha Minh để tìm cách bắt thêm nhiều người, vì càng nhiều người càng kiếm thêm được nhiều tiền đút lót như ngày xưa có tục gọi là ‘tiêu xưng’, và dân gian cũng thường nói ‘vô phúc phải đến tòa quan’. Hiểu như thế mới thấy lời khai của cha Minh muốn tránh liên lụy cho người khác” (DMAH 3 tr.84). 



+ Lý trưởng nghiêm minh: Biết mọi mánh khóe tham nhũng của giới quan lại, thánh Micae Lý Mỹ (+1838) đã cương quyết cản dân làng Kẻ Vĩnh muốn góp tiền nộp cho quan để chuộc ông ra (DMAH 2 tr.187).



+ Một đồng đỏ cũng không: Năm 1773, quan huyện Kẻ Bích là Trung Hiên vừa bắt được cha Gia, đã đề nghị thẳng với cha: “Nếu ông muốn tự do, ông hãy nói với giáo dân mang đến cho tôi 500 quan tiền”. – Cha Gia đáp: “Giá chuộc tôi, một đồng tiền đỏ cũng không được. Nếu quan muốn trả tự do cho tôi thì tùy ý quan, còn muốn giải tôi về kinh cho vua thì tôi sẵn sàng chịu chém hay bất cứ hình nào khác” (DMAH 1 tr.194). 



+ Quan muốn tiền chứ không muốn gỗ: Vào khoảng năm 1798, tại trấn Thanh Hóa, quan muốn làm tiền giáo dân, đã đòi phải nộp tiền để nhà thờ của họ khỏi bị phá hủy. Vì đã hai lần bị bóc lột rồi, nên giáo dân không chịu nộp tiền, để mặc quan muốn phá nhà thờ thì tùy ý quan. Nhưng quan trấn nói rõ ‘Tôi muốn lấy tiền chứ tôi không muốn lấy gỗ’. Trước kia người công giáo đã phải làm tờ giao ước với người lương, đóng góp một số tiền lớn để được yên ổn giữ đạo và khỏi phải tham dự vào việc cúng tế các thần. Thế nhưng mỗi khi có lệnh bắt đạo là các quan và lương dân lại lợi dụng cơ hội làm tiền giáo dân; (DMAH 1 tr.246).



• Thăm viếng các tù nhân vì đức tin: Không phải chỉ theo tình cảm tự nhiên vì ruột thịt, vì tình thân hay vì nghĩa đồng hương, người dân công giáo quan tâm đến việc thăm ‘các tù nhân vì đức tin’ còn vì luật ‘đức bác ái phúc âm’: ‘khi Ta bị tù đày, các ngươi đã đến thăm’ (Mt 25,36): Cả gia đình đã đến thăm ông Micae Lý Mỹ (DMAH 2 tr.191). Cô gái út vào tù thăm mẹ là bà thánh Đê (DMAH 3, tr.28). Một bà đạo đức đã mua chuộc quan quân để được vào thăm cha Duệ và muốn mua cho cha một chiếc chiếu tốt để nằm nhưng cha từ chối (DMAH 2 tr.164). Cha Triệu lẻn vào thăm thầy Truật và cho Thày rước lễ bốn lần, cha còn dẫn mẹ Thày vào thăm con hai lần (DMAH 2 tr.283). Nữ tu Maria Nụ được quan cai tù cho vào thăm cha Xuyên nhiều lần, đặc biệt để băng bó vết thương cho cha, vì cha bị tra tấn dữ dằn đến ‘nát xương rữa thịt’ (DMAH 2, tr.343)… Thật dồi dào về số lượng và phong phú về ý nghĩa, chúng tôi không thể đan cử hết được. Trên đây chỉ là mấy trường hợp tiêu biểu và vắn gọn.



• Chứng kiến các vụ hành quyết: Một trong những nghĩa cử liên đới tập thể của dân làng là kéo nhau đi dự các phiên tòa hay buổi hành quyết của một vị tử đạo. Dân làng, trước tiên là người công giáo, rồi cả lương dân. Người lương đi vì tò mò hay vì tình cảm tự nhiên, đôi khi với tâm tình dị đoan, còn người công giáo đến dự tòa hay chứng kiến cuộc hành quyết là vì ‘liên đới niềm tin’, vì ý nghĩa sâu sa của việc tử đạo. Không thể nêu lên hết, chúng tôi chỉ chọn ba trường hợp sau đây:



+ Người viết chuyện thánh thày giảng Phaolô Mỹ (+1838) ghi lại rằng: “Ngày 17.12, vào lúc 10 giờ, ba thày Đường, Truật và Mỹ bị điệu ra pháp trường Gò Sỏi với 16 tội nhân khác, có 300 lính hộ vệ. Mỗi tội nhân có bốn lý hình đi theo: một người cầm bản án bằng gỗ, hai người cầm xích và gông, và một người cầm gươm đi sau. Sau cùng là người đánh phèng phèng và hai sĩ quan cỡi voi. Dân chúng đi theo sau rất đông. Các anh hùng xưng đạo vui tươi bước đi vững chắc. Thỉnh thoảng giữa đám đông vọng lên tiếng hô lớn: ‘Xem kìa toán lính của Chúa Giêsu’. Tới nơi xử, các binh sĩ làm thành vòng tròn chung quanh các tội nhân trong khi lý hình sửa soạn hình cụ. Thầy Mỹ và thày Truật bị cột vào cọc gần nhau trên những tấm chiếu giáo dân đã trải sẵn. Các thày nằm sấp giang tay ra và chân bị trói vào một cọc, sợi dây vòng qua cổ chờ đợi lệnh. Vào khoảng một giờ trưa, lệnh quan vừa phát ra, lý hình kéo dây thật manh, các vị anh hùng lắc lư cái đầu trong cơn hấp hối. Ngay sau đó, quan đội cho phép người công giáo lấy xác và đem các đồ vật của các ngài đặt ở bên, như giây thừng, xích sắt, bản án”. (DMAH 2 tr.276-277). 



+ Người chép chuyện thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847) ghi lại rằng: “Mọi người dự các phiên tòa xử ông Gẫm đều vui mừng thấy ông có đức tin vững mạnh… Ngày 11.5.1847 quan truyền lệnh đem ông Gẫm đi chém. Rất đông dân chúng đi theo, trong đó có cha Thán đến như lời đã hứa. Tới pháp trường quan đã chỉ định, lính đóng lại sửa soạn, thì dân làng ra lạy quan xin đem đi xa hơn để xử. Quan cho lệnh đến nơi khác gọi là Bánh Tráng và lý hình trải đệm, chặt xích xiềng, mở trói. Trong lúc đó các ông trùm len lỏi đưa cha Thán đến gần hơn để ông Gẫm biết có cha ở đàng sau. Thấy cha rồi, ông Gẫm xin lý hình cho một ít phút để sửa soạn. Khi thấy ông đấm ngực, cha Thán giơ tay ban phép giải tội. Xong, ông quỳ nghiêm chỉnh, xin lý hình thi hành nhiệm vụ. Họ trói ông vào cọc, buộc tóc lên trên đỉnh đầu và chờ lệnh. Hồi chiêng vừa dứt, tên lính cầm đao chém một lát gần đứt đầu, phải cứa lần thứ hai cho đầu rơi xuống đất. Lý hình giơ đầu lên cho quan xem thấy rồi bỏ xuống và chạy đi xa. Giáo dân ùa vào thấm máu. Ba người em ông Gẫm cùng với các ông trùm lo việc mai táng…” (DMAH 3 tr.47-48).



+ Người chép chuyện thánh thừa sai Augustinô Đông (Schoeffler, +1851) ghi lại rằng: “Hôm ấy quan Nguyễn Khắc Tuần cho gọi hai đội quân sửa soạn voi, ngựa và súng, các khí giới đủ loại để áp giải vị anh hùng tử đạo đến pháp trường. Quan làm như vậy vì sợ giáo dân đến đông có thể ‘đánh tháo’ cho vị linh mục. Đám lính gồm 100 người chia thành hai hàng, cha Đông đi ở giữa có tám tên lính cầm giáo hộ tống, đàng trước có một tên lính cầm thẻ ghi bản án, đi sau là hai quan lớn cỡi voi. Khi đi ra pháp trường người anh hùng bỏ dép, đi chân không cho dễ dàng và mau chóng, biểu lộ nét mặt vui mừng hớn hở. Cha ngẩng cao đầu, giơ cao xích và miệng đọc kinh. Một đám đông vô số theo sau đi ra pháp trường ngoài thành quen gọi là Năm Mẫu. Như bị thôi miên trước thái độ can đảm của vị đạo trưởng, nhiều người nói với nhau: ‘Thật là anh hùng, người đi chịu chết mà dường như đi dự lễ. Can đảm chừng nào, không có dấu sợ hãi. Ôi đẹp làm sao, hiền hậu làm sao! Tại sao hoàng đế lại chém đầu những người đẹp như thế?’. Tuy nhiên cũng có kẻ xấu miệng, nói những lời xúc phạm đến đạo… Tại pháp trường, lính đứng thành ba vòng vây quanh cha Đông. Hồi chuông thứ ba vừa dứt, lý hình vung gươm chém ngay vào gáy cổ. Nhưng có lẽ vì run rẩy nên lát đầu chưa đứt phải khía mãi mới đứt hẳn… Đám dân chứng kiến vụ hành quyết này phần lớn là người lương ở Sơn Tây, giáo dân vì biết tin muộn nên không đến kịp…” (DMAH 3 tr.67-68). 



• Thấm máu tử đạo: Người Việt Nam quen dùng cụm từ ‘máu mủ’, ‘máu huyết’ ‘dòng máu’, ‘huyết thống’, ‘khí huyết’, ‘máu chảy ruột mềm’… để chỉ sự gắn bó ruột thịt giữa cha mẹ, con cái, anh chị em một nhà, anh chị em họ hàng gần xa. Cũng với ý nghĩa đó, ông bà ta thường nói : ‘Máu loãng còn hơn nước lã’, ‘Hơi nhà vả lại máu nhà, rõ ràng là mũi mẹ cha sinh thành’, ‘anh em mẫu huyết phụ tình, cũng là một máu nhà mình chớ ai’. Người Do Thái, Hy Lạp, và Trung Hoa đồng quan điểm với người Việt Nam, là liên kết máu vào sự sinh sản và cảm thụ tính của con người. Nhưng trong việc người ta, công giáo hay không công giáo ‘ùa vào’ thấm máu các vị tử đạo mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng khác: Máu tử đạo là ‘máu của những anh hùng chết vì một lý tưởng đã chọn lựa’, ‘máu hy sinh, đổ ra vì ích quốc lợi dân’, ‘máu hiến tế cho Đấng mình tin tưởng và yêu mến’, ‘máu phù trợ những ai có lòng thành’, ‘máu làm phát triển việc truyền giáo và trổ sinh các tín hữư’… Nói theo Tân Ước, đây là ‘máu của người vô tội chảy ra trên trái đất’ (Mt 23,35), hòa với ‘máu giao ước đổ ra để chuộc tội muôn dân’ (Mt 26,28), cho họ được nên công chính (Rm 5,9) và gia nhập vào đàn chiên của Thiên Chúa (Dt 13,20). Ở đây chúng ta không dám đề cập sâu xa về những nghĩa thần học, mà chỉ muốn nhấn mạnh một điều: Khi thấm máu các thánh Tử Đạo, người ta bày tỏ một sự liên đới mãnh liệt với niềm tin anh dũng, với sự hy sinh cao cả của các ngài. Vắn tắt chúng ta nêu lên bốn trường hợp tiêu biểu:



+ Cha Gioan Đạt (+1798) vừa bị chém, đầu rơi xuống đất, máu phun thành dòng, thì quan cỡi voi trở về kinh đô. Lập tức giáo dân gào thét thảm thương, nước mắt dàn dụa, ào đến thi thể ngài. Người thì lấy khăn thấm máu, có người uống luôn, có người đào lấy chỗ đất có thấm máu của vị anh hùng tử đạo (DMAH 1 tr.243).



+ Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự O.P. (+1838) vừa bị chém, đầu tung lên cao cho mọi người nom thấy, cả lương lẫn giáo chạy xúm đến để thấm máu và tranh giành tất cả những đồ của cha để lại. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người thấm máu của vị tử đạo (DMAH 2 tr.229).



+ Cha Dominicô Trạch (+1840) được dẫn ra pháp trường, có rất đông người đi theo. Pháp trường rộng bảy mẫu là nơi máu của biết bao nhiêu vị anh hùng tử đạo đã đổ ra. Khi được lệnh quan lớn, thì từ trên lưng voi một lưỡi gươm vụt xuống đưa linh hồn vị thánh tử đạo về hưởng phúc trên trời. Dân chúng chạy tuốn vào, lấy khăn và giấy thấm máu của ngài và thu góp quần áo, giây thừng, xiềng sắt, gông gỗ… của ngài đem về làm kỷ niệm (DMAH 2 tr. 456-457).



+ Cha Philippê Phan Văn Minh (+1853) bị dẫn ra pháp trường. Quan hô to ‘Tả đạo, hãy chém’, lý hình vung gươm và đầu ngài rơi xuống. Máu phun lai láng. Dân chúng lương và giáo chạy ùa vào thấm máu. Nhưng vì bà trùm Lựu cản nên họ giành giật nhau, mạnh ai người ấy thấm (DMAH 3 tr.91).



• Mai táng các Đấng Tử Đạo. Thấm nhuần đạo hiếu, tôn kính Tổ Tiên và luân lý của Khổng - Mạnh, người Việt Nam rất trọng việc tang tế. Theo đức Khổng Tử, tang là một trong ba điều trọng nhất (Sở trọng giả: thực, tang, tế - Luận Ngữ) Vì thế ông bà chúng ta thường nói: ‘Sinh cư tử táng’, ‘sống vì mồ mả’, nên phải làm sao cho người quá cố được ‘mồ yên mả đẹp’. Ý tưởng ‘Nghĩa tử là nghĩa tận’ rất hệ trọng. Giáo dân Việt Nam nằm lòng những lời dạy của ông bà, họ rất liên đới với nhau trong việc ‘tìm mọi cách để lo mai táng các anh hùng tử đạo cho xứng đáng’. Nhiều khi quan quân đối xử với các anh hùng tử đạo theo kiểu ‘sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi’, nhưng giáo dân không hành động như vậy. Họ không thể liệt các anh hùng tử đạo vào sổ những người ‘sinh vô gia cư, tử vô địa táng’ hay ‘tham sống sợ chết’. Họ hãnh diện liên đới với cái chết dũng cảm của các ngài, họ không thể để các ngài thành ‘mai danh ẩn tích’, vì các ngài là những công dân Việt Nam gương mẫu, đáng được ‘sống thuận tử an’ và ‘mai cốt bất mai danh’. Không phải chỉ người thế gian mới trân trọng cái chết của con người, nhất là những con người đã sống trung thành với nền đạo lý và văn hóa quê hương của họ, những người đã chết cách anh dũng về đức tin, về công lý. Trước mọi người, trước mọi dân tộc, chính Thiên Chúa rất quý trọng cái chết của những người đã hy sinh mạng sống vì đạo thánh, như lời thánh Aucơtinh quả quyết: “Chính mắt chúng ta thấy rằng điều chúng ta vẫn hát đúng dường nào: Trước mặt Chúa thật là quý giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Quả vậy, cái chết đó quý giá đối với chúng ta và cũng quý giá trước mặt Thiên Chúa, bởi lẽ các Ngài đã chết vì danh Người” (5). Muốn thấy giáo dân bày tỏ lòng kính trọng và tình liên đới với cái chết của các Thánh Tử Đạo tiền nhân như thế nào, chúng ta hãy đọc một vài trường hợp ‘giáo dân đã chôn cất và mai táng’ di hài các anh hùng tử đạo: 



+ An táng hai thày giảng Inhaxiô và Vicentê (1645): Vừa khi hai thày bị chém đầu, giáo dân ùa vào thấm máu các vị anh hùng tử đạo. Giáo dân đã chuẩn bị bốn chiếc thuyền dưới sông để đưa xác các vị đi an táng tại một nơi thích hợp. Tất cả cung kính đưa xác ra tới sông, nhưng chỉ có 29 người được xuống thuyền đi đến nơi an táng. Trước cảnh giáo hữu cũng như những người ngoại giáo tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng tử đạo, chúa Thượng Vương giận dữ sai lính đi đến hai làng có đông người công giáo để bắt những người đang hội họp trước hài cốt các vị tử đạo. Một số đông bị đánh đòn và đưa về Thuận Hóa (DMAH 1 tr.38).



+ An táng thày giảng Phanxicô Chiểu (1838): Sau khi một tên lính tung đầu thày lên ba lần theo tục lệ, thì giáo dân và lương dân đã ào đến hôn kính xác vị anh hùng tử đạo dù các quan ra lệnh ngăn cấm và dọa nạt. Họ tranh nhau thấm máu đào của ngài, có người còn cắt cả râu, tóc và xé lấy một mụn áo của thày về làm kỷ niệm. Sau đó quan cho phép giáo dân mang quan tài tới để liệm xác và chôn ngay tại chỗ. Sau này giáo dân cải táng đưa về làng Trung Lê, quê quán của thày (DMAH 2 tr.124).



+ An táng đức cha Girôlamô Hermôsila (Vọng), đức cha Berriô-Ochoa (Vinh) và cha Almatô (+1861). Trước khi ra lệnh hành quyết ba đấng, quan ra lệnh cấm không được thấm máu. Thế nhưng vừa khi ba đầu rơi xuống đất, dân chúng chạy vào thấm máu và tôn kính xác các ngài. Theo án lệnh, chỉ chôn tại chỗ ba thân xác, còn ba chiếc đầu phải ném xuống sông. Nhưng người công giáo lợi dụng lúc ‘quan quân áp tải ba cái đầu’ đang ăn uống say sưa trong một nhà hàng, đã tìm cách đánh tráo ba cái đầu thánh bằng ba củ chuối lớn, rồi xuống thuyền đưa về Yên Dật. Đầu của ba anh hùng tử đạo được bỏ vào ba nồi đất mới mà chôn trong nhà thờ thánh Gioan họ Yên Dật. Còn thân xác của ba đấng tử đạo, thì quan bắt chôn tại chỗ. Nhưng người công giáo đút tiền cho lính, tìm tro rắc lên trên để làm dấu. Tối 30 tết Tân Dậu, không có ai lai vãng, giáo dân đem thuyền và vải đến để liệm xác đem về, nhưng vừa tới cửa Hàn thì gặp thuyền chánh tổng Triệt. Dân thưa thành thật rằng, họ là giáo dân huyện Lang Tài nghe có ba Đấng bị trảm quyết là bậc cha mẹ mà bị chôn vùi trần trụi nên không yên lòng. Họ muốn đem quan tài và áo vải, khăn liệm chôn lại cho đúng đạo. Ông chánh Tổng đòi 300 quan tiền nhưng dân chỉ có 100 quan. Ông tổng cũng nhận, nhưng giữ lại hai thuyền, bắt họ trở về kiếm cho đủ số tiền. Đến đêm mồng 3 tết, ông tổng Triệt mới chịu dẫn ông Lý Đạt, Cả Nhân và xã Thụ là ba người công giáo đi lấy xác. Họ đem từng xác xuống, mỗi vị ở một thuyền và chở về Thọ Ninh. Đường đi mất 9 tiếng đồng hồ. (DMAH 2 tr.290-291).



6. Liên đới của những người không đồng đạo.



Nhiều trường hợp những người lương dân, thậm chí cả các quan hay lính canh nhà tù, đã tỏ ra thông cảm và liên đới với những đau đớn, khổ nhục và án hành quyết các Thánh Tử Đạo phải chịu. Chẳng hạn: 



• Nấu cơm cho những người bị phơi nắng: Năm 1840, khi thống đốc Trịnh Quang Khanh và quan phủ Thiện Bản bắt các gia trưởng công giáo làng Kẻ Báng ra điểm danh rồi trói phơi ngoài trời nắng chang chang. Các bà lương cũng như giáo đã xin phép các quan nấu cơm đem ra cho những người bị giam nắng ăn (DMAH 2 tr.461). 



• Họ không trộm cắp, không bớt xén công quỹ: Ngày quan Micae Hồ Đình Hy (+1857) bị đưa ra pháp trường, rất đông dân lương đi theo. Nhiều người nói với nhau: “Nào người này có phạm tội gì đâu, không trộm cắp hay bớt xén công quỹ, thật chỉ vì theo đạo Thiên Chúa mà phải khổ sở” (DMAH 3 tr.159).



• Xin nhớ đến chúng tôi: Sáng ngày cha Laurensô Nguyễn Văn Hưởng (+1856) bị đem đi xử trảm, ông đội canh dẫn vợ con vào chào cha Hưởng và nói những lời rất cảm động: “Mặc dù tôi không theo đạo công giáo nhưng tôi biết rõ các linh mục vô tội, ở Nghệ An tôi cũng đã phải canh một linh mục. Tôi không dám làm khổ ai, nhưng bây giờ phép triều đình đem cụ đi xử thì xin khi về thiên đàng nhớ đến chúng tôi với”. Cha Hưởng từ giã ông cai đội như sau: “Tôi rất biết ơn lòng tốt của ông, phần tôi, tôi đi về với Thiên Chúa, ông và gia đình ở lại bình an” (DMAH 3 tr.117). 



• Khi lên trời xin nhớ đến tôi với: Đức cha Marti kể lại rằng: Ngày 27.6.1840, giữa trưa thày giảng Toma Toán trút hơi thở tại chỗ giam, thọ 73 tuổi. Khi thày gần qua đời, chính cai đội tham đã đến bên săn sóc thày, thay quần áo sạch sẽ cho thày và thu xếp góp quần áo cũ để làm dấu tích thánh. Sau cùng ông thưa với thày: “Lạy ông, tôi là người không có đạo, nhưng tôi xin ông khi lên trời nhớ đến tôi cùng” (DMAH 2 tr.436-437).



II. TINH THẦN LIÊN ĐỚI CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO



Trong bối cảnh chính trị và xã hội thời bách hại, nhiều người lên tiếng đòi các vua quan hãy sống đúng nguyên tắc phục vụ cơ bản là ‘dĩ dân vi quý’. Chẳng hạn ông Nguyễn Trãi (1380-1442) đã khuyên nhủ: “Nhân Nghĩa chi cử, yếu tại an nhân” (việc nhân nghĩa cốt tại an dân). Rồi nhìn vào xã hội tham tàn thối nát, dân tình nheo nhóc, ông đã than lên, tại sao “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới xuống hầm tai vạ, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế?”. Mấy chục năm sau, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cũng viết: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, đắc quốc ưng tri tại đắc dân” (Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân). Trong một bối cảnh xã hội như vậy, các anh hùng tử đạo Việt Nam, nhất là các linh mục, thày giảng hay ông trùm làm sao không chia sẻ, liên đới đến tam cùng với dân chúng được? Các ngài không có tài văn võ, không có tiếng nói công khai như quý ông Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ… nhưng các ngài giàu lòng phục vụ âm thầm, đầy bác ái, yêu thương và chia sẻ với dân nghèo, đồng quê. Các ngài nâng đỡ họ về tinh thần, hướng dẫn họ sống theo tình yêu, chân lý và huynh đệ… Theo gương Chúa Giêsu, ‘các ngài sống giữa họ để phục vụ chứ không phải để được phục vụ’ (Mt 20,27-28). Các ngài đến như thánh Gioan là ‘giảng cho người ta nhận ra Thiên Chúa và được ơn cứu độ Ngài ban’ (Lc 1,76). Vì thế các ngài tự thấy: một trật phải liên đới với giáo dân, phải sống và hoạt động với họ, vì họ và nhờ họ, vừa phải liên đới với nhau theo tinh thần hiệp thông của Giáo Hội: Mỗi vị là một tay thợ của vườn nho (Mt 20,1-16), của đồng lúa (Mt 9,37-38). Nhưng trên hết là phải liên đới với Chúa Giêsu: Chính Chúa kén chọn các ngài, cắt đặt công việc mục vụ cho các ngài (Ga 15,16-17), trao cho các ngài ‘chén đắng phải uống’ (Mc 10,38-39) đàn chiên phải chăm lo (Ga 21,16-17). 



1. Các ngài sống giữa dân nghèo như những người phục vụ: 



Không bài giảng hay bài giáo lý nào hiệu lực, đánh động người ta hơn là ‘đời sống chứng tá’. Đó là phương thế truyền giáo là sư phạm mục vụ của các Thánh Tử Đạo giữa giáo dân nghèo khổ cơ cực, chân thành, lương thiện mà các ngài được sai đến để phục vụ.



• Cha Vicentê Đỗ Yến (+1838) là một vị đầy lòng từ bi bác ái, tính tình rất dễ thương, đồng thời cũng đầy cương nghị, nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Sống giữa giáo dân, ngài luôn sẵn sàng lo lắng cho con chiên và tận tụy hết mình. Ngài không bỏ qua một cơ hội nào mà không giúp đỡ những người chung quanh. Tất cả tâm hồn ngài tập trung mỗi khi dâng lễ và cử hành bí tích’ (DMAH 2 tr.131).



• Thầy giảng Phêrô Đào Văn Vân (+1857) phục vụ người nghèo hết mình: Những người giáo dân Bầu Nọ quả quyết rằng: Thầy Vân rất đạo đức, hiền lành, siêng năng làm việc, dù đã có tuổi. Bổn đạo thấy thày đã hơn 70 tuổi rồi mà còn ra ngoài đồng làm việc thì cản ngăn, nhưng thày nói: ‘Bổn đạo vất vả, chân lấm tay bùn, dầm sương dãi nắng, gồng gánh xa xôi, tôi làm một chút gọi là đỡ cho họ’. Mọi người cảm phục và khen ngợi lòng bác ái của thày. Thấy ai khốn khó, thày Vân đem tiền của đến tận nhà giúp đỡ họ. Ngoài ra thày Vân còn năng đi thăm kẻ liệt và chuyên cần dạy giáo lý nữa. (DMAH 3 tr.161)



• Cha Tế (+1745) không muốn để giáo dân bị liên lụy vì mình: Ngay khi vừa bị bắt với một số giáo dân, quan nạt nộ cha Tế dữ dội, mục đích để đòi tiền chuộc. Có lần quan hỏi cha: ‘Ngươi có sợ không?’. Cha trả lời mạnh mẽ ‘Tôi không sợ cho tôi, mà tôi chỉ lo cho giáo dân thôi’… Cha Tế bị bắt và bị giam suốt 7 năm. Tuy nhiên cả trong thời kỳ bị giam, cha vẫn tiếp tục giúp đỡ tinh thần cho giáo dân (DMAH 1 tr.167+169).



2. Liên đới với các bạn tù. 



Không có một nhà tù riêng cho các anh hùng tử đạo. Khi bị bắt, các ngài bị đồng hóa như một tội nhân phạm pháp. Ý Chúa muốn như vậy để các ngài hiểu rộng rãi hơn câu ‘tứ hải giai huynh đệ’, thấm thía hơn lời ‘nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại’. Chia sẻ nhiều hơn, liên đới nhiều hơn với các tù nhân thường lệ.



• Để giúp đỡ về tinh thần: Cha Huấn làm chứng rằng: ‘Khi ở trong tù thầy Mậu (+1839) vui vẻ, gây được nhiều thiện cảm với các bạn tù ngoài công giáo… Vì thế thày đã dạy giáo lý cho 44 người, trong đó có một thanh niên nhiều chữ nghĩa tên là Hùng, học kinh bổn giỏi và thành thật. Anh đã xin và thày Mậu đã rửa tội cho anh…’ (DMAH 2 tr.347).



• Để giúp đỡ về vật chất: Nhiều người làm chứng về lòng bác ái của cha Xuyên (+1839), nhất là khi ở trong tù. Khi giáo dân đến thăm cho tiền hay cho đồ ăn, cha đều đem chia sẻ với các bạn tù (DMAH 2 tr.336). Cũng vậy, ông trùm Đích (+1838) sống thân thiện với các bạn tù. Nhiều lần ông mời họ đọc kinh với ông. Nhất là những đồ dùng hay thức ăn gia đình hoặc người thân đem cho ông, ông đều chia sẻ lại cho các tù nhân cùng giam với mình (DMAH 2 tr.201).



3. Liên đới nhau trong niềm tin và đức bác ái. 



Là người Việt Nam - Công Giáo, các anh hùng tử đạo thương nhau, liên đới với nhau dĩ nhiên là theo nghĩa ruột thịt gia đình ‘anh em như thủ túc’, ‘chị ngã em nâng’ ‘máu chảy ruột mềm’ ‘lá lành đùm lá rách’; hay theo tinh thần đoàn thể ‘Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ’, ‘tương thân tương ái, hăng hái tiến lên’; hoặc theo tình tự dân tộc ‘vì dân vì nước tạo nghĩa tương thân’, ‘bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn’, ‘Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước hãy thương nhau cùng’… Nhưng đồng thời, cao siêu và phong phú hơn, các ngài yêu thương và liên đới với nhau trong niềm tin anh dũng, nói khác, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, gọi mọi người là anh em, đồng thân phận và chịu mọi thử thách như mọi người, hầu giúp những ai gặp thử thách, dạy họ trung tín thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho mọi người và cứu rỗi mọi người’ (xDt 2, 10-18). Các ngài cũng sống theo tinh thần của thánh Phaolô: ‘tự nguyện làm tôi tớ mọi người, vui với người vui, yếu với người yếu, khóc với người khóc, trở nên mọi sự cho mọi người hầu cứu rỗi thêm được nhiều người’ (1Cr 9,16-23). Một cách cụ thể, các anh hùng tử đạo đã thể hiện tình yêu và liên đới huynh đệ với nhau như thế nào? – Xin thưa: 



• Bảo vệ người và nơi che giấu các ngài: 



+ Thánh linh mục Nguyễn Đình Nghi (+1840): ‘Hôm ấy thống đốc Trịnh Quang Khanh cho lính khám nhà bà Anna Thuận, họ bắt được đồ đạo và trói bà giải đi. Một toán lính khác khám xét nhà bà Duyên, bắt được cha Nghi, họ reo hò mừng rỡ. Rồi họ dùng gươm, mác đâm thủng các bờ vách và đào nát nền nhà của bà. Lúc đó cha Nghi lên tiếng: ‘Tôi là linh mục, tôi sẵn sàng chịu mọi hình phạt vua quan sẽ định cho tôi, tôi chỉ xin các ông một điều là tôn trọng đừng phá nhà này, đừng dánh đập những người giáo dân vô tội’ (DMAH 2 tr.460). Cũng chính cha Nghi, trong phiên tòa 7.7.1840, thống đốc Trịnh Quang Khanh đòi ba cha Nghi, Ngân (+1840) và Thịnh (+1840) phải khai báo những nơi trú ẩn và những người chứa giấu các ngài. Cha Nghi thưa thay cho anh em: ‘Thưa quan lớn, chúng tôi đã đi nhiều nơi, nếu nói ra quan lớn sẽ tàn phá những nơi ấy và sẽ hành hạ những người có lòng che chở chúng tôi. Vì thế, xin lỗi quan lớn, chúng tôi không bao giờ khai báo’. Quan tức giận truyền cho lính đánh xối xả vào ba cha. (DMAH 2 tr.465). 



+ Thánh thừa sai Louis Hương (+1852) nói nhiều lần với quan tòa: “Tôi đi rất nhiều nơi, không còn nhớ đến tên. Nếu tôi nhớ, tôi cũng không bao giờ nói cho các quan biết”. Lần khác ngài quả quyết: “Các quan cứ việc đánh đòn tôi đi theo như ý thích của các quan. Xin đừng trông tôi khai một lời nào có hại cho giáo dân. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết” (DMAH 3 tr.74, 75). 



• Liên đới với nỗi buồn và lo lắng của người trong gia đình còn ở lại và khuyên họ vững vàng sống đức tin. 



+ Thật cảm động, những lời thánh Matinô Thọ (+1840) nói với vợ và các con trước khi bị bắt: ‘Nếu tôi bị bắt, xin bà và các con hãy vui lòng, dù có mất của cải cũng đừng phàn nàn. Nếu bà và các con bị bắt, xin bà và các con can đảm xưng đạo cách mạnh mẽ’ (DMAH 2 tr.474). Khi ngồi tù và được các con tới thăm, ông lại thân mật chia sẻ: ‘Các con yêu quý của cha, Thiên Chúa nhân lành định rằng cha không còn về với các con nữa, nhưng các con còn có mẹ, hãy vâng lời mẹ. Các anh chị lớn hãy lo đùm bọc các em nhỏ, các em nhỏ chịu khó nghe lời anh chị. Các con hãy can đảm làm việc chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ, hãy trung thành đọc các kinh sáng kinh chiều và lần hạt. Thiên Chúa ban cho mỗi người một Thánh Giá, các con hãy vui lòng vác lấy và can đảm chịu gian khổ mà giữ đạo thánh. Cha không còn làm gì để giúp các con ở dưới trần này được nữa, cha chỉ còn lo sửa soạn ra đi. Vậy sau khi cha chết rồi, chú Chấn và mẹ các con chết rồi, thì hãy chia nhau tài sản. Nếu được phép, các con mang xác cha về chôn nơi cha bị bắt. Những gì cha đã làm cho các anh chị lớn khi cha còn ở nhà, thì các anh chị lớn cũng hãy làm như vậy cho các em nhỏ’ (DMAH 2 tr.476).



+ Thật cảm động lời của thánh y sĩ Simon Phan Đắc Hòa (+1840) nói với vợ hiền trước khi đi chịu trảm quyết: “Bà hãy can đảm, đừng buồn sầu vì số phận tôi đang chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Xin bà hãy khuyên bảo các con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về các học trò của tôi, bà hãy coi chúng như con vậy”. Rồi ngài hôn đứa con út và nói: “Khi cha bị bắt, con mới có một tháng mà bây giờ đã tập tễnh biết đi. Cha dâng con cho Chúa” (DMAH 2 tr.488). 



• Các ngài không bao giờ có lời khai báo làm khổ cho nhau: ‘Cả họ vui chịu sỉ nhục, đánh đập, bỏ làng trốn đi chứ không nói chỗ ẩn lánh của cô Daria, một người đồng đạo muốn giữ luật Chúa (DMAH 1 tr.110). Thày giảng Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu bị giam cùng một trại tù với cha Tự, y sĩ Cảnh, và các thày giảng Uy, Vinh, Đệ, Mới. Ngài bị khốn khổ nhiều lắm vì mỗi lần ra tòa, các quan cứ hỏi vặn cho biết về những người đồng đạo cùng bị giam. Thày khôn khéo không nói câu nào gây phiền lụy cho người khác (DMAH 2 tr.345).



4. Liên đới ngay với những người ‘chối đạo vì yếu đuối và hèn nhát’ để khuyên họ can đảm xưng đạo và sống đạo.



Các Thánh Tiền Nhân nhìn thấy rõ nguy cơ chối đạo: Vì lợi lộc vật chất, vì tham sống tạm bợ, vì nhát đảm, vì bị mê hoặc bởi những lời dụ dỗ, lại không cương quyết chấp nhận mọi đau khổ, mọi roi đòn mọi nhục mạ, hay đầu hàng trước cái chết dữ dằn, mà nhiều người đồng đạo, thậm chí có cả linh mục đã ‘chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng…’ (Dt 10, 26-29). Các Thánh đau buồn, nhưng không bao giờ có một lời oán trách, chê bai hay lên án những người chối đạo. Các ngài đợi dịp tốt thì khuyên họ can đảm tuyên chứng đức tin, trở về với đạo thánh và thành tâm thống hối để được ơn tha thứ… Sau đây chúng ta nêu lên một vài trường hợp cụ thể:



• Một trong những mưu độc của tổng trấn Trịnh Quang Khanh: dùng tên những người công giáo đã bỏ đạo để khuyến dụ và làm lung lay đức tin của các chiến sĩ Chúa Giêsu. Nhưng nhờ ơn Chúa các Thánh lờ đi, không nghe theo, không hở môi chê bai chỉ trích những người đã bỏ đạo. Chẳng hạn chúa Minh Vương thường nhắc đến vụ thừa sai Maurô chối đạo (DMAH 1 tr.75). Hay tệ hơn, quan tuần vũ Ninh Bình còn kéo cụ Duyệt đã chối đạo đến khuyên thày giảng Gioan Baotixita Đinh Văn Thành (+1840): “Hãy bắt chước Thánh Phêrô đi, chối đại rồi ăn năn trở lại”. Thày Thành nghe nhưng làm ngơ lời khuyên ghê sợ ấy, nên bị quan tuần vũ cho lính đánh 30 trượng (DMAH 2 tr.405). 



• Chuyện ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Nicola Bùi Đức Thể và Dominicô Đinh Đạt (+1839) thật cảm động. Ba ông đã can đảm xưng đạo và chịu hành hạ, sỉ nhục suốt tám tháng trời, thế nhưng vì yếu đuối cả ba đã theo nhau chối đạo, để lãnh lấy mỗi người 10 quan tiền và trở về nhà. Nhưng cũng từ đó cả ba đều bị lương tâm cắn rứt và được nghe nhiều lời khuyên răn tốt lành… Ba ông coi đó là ơn Chúa tha thứ và kêu gọi hối cải. Ba ông rủ nhau đi tìm linh mục giải tội và quyết tâm lên tỉnh xưng đạo lại. Cả ba quỳ xuống lạy quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh: “Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là là Đấng cao cả phép tắc vô cùng, bởi chúng con đã quá dại dột mà chịu quá khóa, mất nghĩa cùng Chúa chúng con, nay chúng con xin trả tiền lại cho vua và cho quan lớn, cùng xin giữ đạo Chúa cho thật lòng”… Nghe vậy, tổng trấn Trịnh Quang Khanh nổi giận, chửi bới thậm tệ. Nhưng ông không biết xử trí làm sao… Trong lúc đó ba binh sĩ Huy, Đạt và Thể bảo nhau ăn chay, hãm mình, cầu nguyện để đền ‘tội đã làm gương xấu’ và ‘xin ơn chết vì đạo thánh’… Rồi ba ông cương quyết: “Nếu quan thượng Khanh không cho chúng ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh đô tâu xin nhà vua cho chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù chúng ta đã làm”… Hay tin, mọi người quen biết, bị giam trong tù hay sống đạo ở ngoài, chung lời cầu nguyện cho ba ông… Và ba ông đã được phúc tử vì đạo cùng năm 1839 (DMAH 2, tr.295-328). 



• Khi thày giảng Toma Toán (+1840) tuyên bố bỏ đạo thì thánh linh mục Giuse Đỗ Quang Hiển (+1840) cùng bị giam trong một nhà tù, yên ủi và khuyên răn nên Thày Toma hối cải, khóc lóc cầu nguyện ‘Lạy Chúa con, con thật đã quá điên rồ nên mới nghe người ta mà chối bỏ chính Chúa của con. Con quyết ăn năn giốc lòng chừa không bao giờ phạm tội như vậy nữa’. Thày được cha Hiển giải tội cho. Sau đó, nhiều lần được dỗ ngọt, bị đe dọa, đánh đòn, thày Toma chỉ nói luôn một câu: ‘Thưa quan lớn, tôi không có ý bỏ đạo bao giờ nữa. Tôi sẵn lòng chết chứ không tuân lệnh quan lớn’. Quan tức giận, đã bỏ đói thày cho tới chết, ngày 27.6.1840, thọ 73 tuổi (DMAH 2 tr. 430-436). 



5. Liên đới ‘nâng đỡ và an ủi nhau’ và quyết tâm tuyên chứng đức tin.



Như lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: Trong thời cấm đạo, nhất là khi bị bắt, các vị tử đạo phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập, khi bị sỉ nhục và hành hạ trước quan tòa, khi phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Các ngài đã thông phần đau khổ với những anh chị em cùng tù tội, đã vui mừng để người ta tước đoạt của cải, chức vị… Tất cả chỉ vì lòng tin, chỉ vì muốn trung tín với Thiên Chúa, muốn được ơn cứu độ… muốn chờ đợi phần thưởng cao quý và vĩnh cửu (xDt 10,32-35). Trong trận chiến căm go này, các Thánh Tiền nhân đã liên đới với nhau, đã thực hiện cụ thể giới răn của Chúa Giêsu ‘Các con hãy yêu thương nhau như thày yêu thương các con’ (Ga 15,17): khích lệ người nhút nhát, nâng đỡ người yếu hèn, không lấy ác báo ác, nhưng làm điều tốt cho nhau, chỉ dẫn cho nhau, kính trọng nhau, hòa thuận với nhau, nhất là cầu nguyện cho nhau không ngừng và cùng nhau tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.… (x.1Ts 5,12-22).



• Sách kể rằng: Khi 8 người giáo dân Quảng Nam (1700) bị các quan giải về Kinh Đô và ném vào chuồng voi, họ không ngớt lời an ủi nhau’ (DMAH 1 tr 82).



• Sách kể rằng: Ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Dominicô Đinh Đạt và Nicolas Bùi Đức Thể (+1839) đã cấu kết với nhau theo tình nghĩa đồng binh chủng và đồng đức tin. Vì thế trước quan tòa, binh sĩ Phạm Viết Huy luôn đại diện anh em để trả lời. Chẳng hạn khi quan cho lính kéo lê các ngài qua ảnh Thánh Giá rồi truy hô ‘Chúng quá khóa rồi, chúng quá khóa rồi’, thì lập tức ông Huy đại diện anh em kêu lên thật lớn: ‘Quan lớn dạy đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã quá khóa được!’. Quan tức giận, đánh đòn ba ông trong ba ngày liền, mỗi ông bị đánh 130 trượng. Lần khác ra tòa, quan dụ ba ông bỏ đạo, ông Huy lại thưa thay anh em: ‘Bẩm quan lớn, quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi sẽ theo đạo nào, vì trong các đạo khác, chẳng có đạo nào là đạo thật’. Quan tức giận truyền cho lính cạo trọc đầu cả ba ông, bắt đeo gông và phơi nắng trước dinh quan (DMAH 2tr.302).



• Sách kể rằng: “Khi quan đã chém đầu cha Tự và y sĩ Cảnh rồi, thày Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu được coi như ‘người hướng dẫn tâm hồn của bốn thày giảng khác là Uy, Vinh, Đệ và Mới’. Mỗi lần ra tòa thày Mậu đều trả lời thay cho bốn anh em. Ngày bị dẫn ra pháp trường, thày Mậu cũng đi trước và bốn thày Uy, Vinh, Đệ, Mới đi theo sau. Tất cả đều hân hoan, niềm vui hiện trên khuôn mặt…” (DMAH 2 tr. 346,351). 



6. Liên đới với những người cầu xin các ngài. 



Ngay sau khi chết để tôn vinh Thiên Chúa, xây dựng Đạo Thánh và vì yêu mến Quê Hương, nhiều vị Thánh Tử Đạo đã được diễm phúc biểu dương uy quyền của Thiên Chúa bằng những dấu lạ. Các ngài trở nên những ‘trung gian đắc lực trước tòa Thiên Chúa cho những ai nhờ các ngài cầu thay nguyện giúp’. Đối với chúng ta và ở trước tòa Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ‘những cha mẹ hiền lành để đức cho con’. Ở trên Thiên đàng, các ngài không chỉ ‘dĩ đức báo đức’, mà còn ‘dĩ đức báo oán’, các ngài nhìn rõ ‘nhân tình thế thái’, thấu hiểu lòng người, thông cảm và chia sẻ với mọi nỗi cơ cực của đời sống con người, đặc biệt của những ai thành tâm cần đến sự giúp đỡ của các ngài. Phần thưởng Thiên Chúa trao ban cho các ngài là khả năng ‘cứu nhân độ thế’, ‘phù hộ độ trì’, ‘cứu khốn phò nguy’…. Những dấu lạ chúng ta đan cử dưới đây xác nhận như vậy:



• Nhờ lời bầu cử của thày Phanxicô (+1629), một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám; một cô gái tỉnh Nghệ An đã cứu người mẹ hấp hối tỉnh lại và khỏe mạnh bình thường; một cụ già nằm liệt sắp chết giữa rừng được khoẻ lại (DMAH 1 tr.110).



• Nhờ lời bầu cử của cha Đậu (+1745), ông lý hình Chân Nhuệ, người đã bắt nộp cha Đậu cho quan trấn và sau khi cha Đậu chết vì đạo, ông đã hối cải và cầu xin với ngài, ông được khỏi bệnh cách lạ lùng. Một trường hợp khác: ông già giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người bạn công giáo khuyên ông cầu khấn cha Đậu. Ông nghe theo, khấn vái thành tâm và được khỏi bệnh. Sau đó ông xin trở lại làm con Chúa (DMAH 1 tr.188-189)



• Nhờ lời bầu cử của cha Đạt (+1798), cậu Đam được khỏi bệnh. Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể rằng: ‘Cháu trai của tôi là Đam bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Một hôm, tôi được ơn soi sáng, đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa’ (DMAH 1 tr.244).



• Nhờ lời bầu cử của cha thánh Tùy (+1833), Chúa đã ban cho nhiều người được ơn lạ. Thầy Bernard Thu kể lại rằng: ‘Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Riêng tôi, tôi xác quyết rằng: mỗi lần tôi chữa trị các bệnh nan y, tôi đều cầu khẩn với cha Tùy, và tôi được cha nhậm lời. Chính ngài đã chữa các bệnh nhân. Một vụ việc khác: nhờ lời bầu cử của cha thánh, ruộng lúa của tôi không bị sâu bọ tàn phá như những ruộng khác của đồng bào. Mọi người bỡ ngỡ, nhưng tôi vui mừng vì biết lời khấn của tôi đã được chấp nhận’. (DMAH 2 tr.50-51).



• Nhờ lời bầu cử của thánh y sĩ Cảnh (+1838), những người công giáo hộ tống xác ngài phải đi qua sông giữa đêm khuya và không có đò, họ sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện cùng Đấng Tử Đạo, bỗng nhiên nước rút cạn chưa từng có. Họ đưa xác ngài qua sông về nơi an táng cách dễ dàng (DMAH 2 tr.234).



• Nhờ lời bầu cử của thánh linh mục Đaminh Mầu (+1858) nhiều người được chữa lành: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà xứ Kẻ Điền quả quyết ‘mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch’. – Bà thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng ‘mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884’. – Ông cai Thìn, người Lương, cũng quả quyết ‘mình được khỏi quỷ ám, nhờ khấn trên mộc cha thánh Mầu’ (DMAH 3 tr.197).



7. Liên đới với Chúa Kitô.



Tột đỉnh của mọi liên đới trong đời sống của người có đức tin là liên đới với Thiên Chúa, với Đức Kitô. Nói cách khác, họ kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô ‘để không những thành những cành nho gắn liền với thân nho’ (Ga 15,5), ‘thành những chi thể gắn liền với thân thể’ (Rm 12,4), nhưng còn hơn thế, ‘không phải họ sống mà là Chúa Kitô sống trong họ’ (), ‘nói trong họ và hành động nơi họ’ (xMt 10,18-20). Thực ra các Thánh Tử Đạo đã múc lấy tinh thần liên đới cao quý này ngay trong ‘niềm tin vào Trời của dân tộc Việt Nam’: ‘Trời sinh Trời dưỡng’, ‘Trời có mắt’, ‘Phước tội tại Trời’, ‘Trăm sự nhờ Trời’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Thiên Đạo chí công’, ‘Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt’, ‘Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên’, ‘Sống chết ở Trời’, ‘Trời thưởng, Trời phạt’… Quan niệm linh thiêng này được minh bạch hóa, được siêu nhiên hóa, được phong phú hóa và được phổ biến hóa nhờ đời sống đức tin vững chắc và việc tuyên xưng đức tin cách anh dũng của các ngài. Theo gương Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo muốn quy mọi sự về Thiên Chúa, dâng mọi đau khổ, cực hình và cả mạng sống cho Thiên Chúa, hoàn toàn vì vinh danh Thiên Chúa và để được phần rỗi đời đời. Chúng ta hãy đọc những chứng từ sau đây:



• Thánh y sĩ Giuse Hoàng Lương Cảnh (+1838): Dù đã cao niên, lại phải ra hầu tòa nhiều lần, nghe những lời khi nhục mạ khi dụ dỗ, thánh nhân đều bình tĩnh trả lời, nhưng luôn kết thúc bằng lời cầu xin: ‘Lạy Chúa Giêsu là đường ngay nẻo thật, ai theo Chúa sẽ được sống rất hạnh phúc. Xin Chúa giúp sức cho con’ (DMAH 2 tr.232). 



• Thánh Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu (+1839) viết thư cho cha Huấn kể lại rằng: Khi ấy Đức Chúa Trời đã soi sáng cho con thưa mạnh dạn rằng: “Thưa quan lớn, tôi thờ lạy Thiên Chúa là Cha trên hết các cha, là Chúa trên hết các chúa. Bổn phận của tôi là tôn vinh Ngài…”. Bấy giờ quan lại bảo con và các thày Đệ, Uy, Mới và Vinh rằng: “Tụi bay ăn giống gì mà ngu dại thế, tụi bay cũng không thương cha mẹ nữa, ai sinh ra tụi bay ở thế gian này?”. Con lại thưa ngay: “Thưa quan lớn, cha mẹ tôi sinh ra tôi, song cũng bởi quyền phép của Thiên Chúa thì tôi mới có!” (DMAH 2 tr.350).



• Thánh nữ Anê Lê thị Thành (+1841): Bị hành hạ quá nhiều, lại bị cơn sốt nặng, thánh nữ kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng khi miệng còn kêu xin: “Lạy Chúa tôi, Chúa đã bị đóng đinh vì tôi. Chúa định cho tôi thế nào, tôi xin vâng theo. Tôi phó thác linh hồn và xác tôi trong tay Chúa, Xin Chúa tha tội cho tôi” (DMAH 3 tr.29). 



• Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (+1857): Trong thời gian bị giam tù, thánh Lê Bảo Tịnh luôn nói cương quyết: “Tôi quyết tâm chịu mọi sự khổ cực thiếu thốn vì Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu là Cha rất nhân lành, là Đấng tôi quyết chí kính mến hết lòng, hết sức cho đến hơi thở cuối cùng” (DMAH 3 tr.134).



• Thánh Phêrô Đoàn Công Quý (+1859) đã bày tỏ lòng mong ước được tử đạo: “Chớ thì tôi không được diễm phúc chiến đấu và chết vì Chúa sao, ước gì xích xiềng trở thành những vòng đeo tay. Hãy xem bao nhiêu bạn hữu đã được ngành lá chiến thắng, còn tôi như người lính canh bị bỏ quên. Ôi lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con phúc chết vì Chúa” (DMAH 3 tr.219). 



Sau khi trình bày chi tiết về hai khía cạnh liên đới của thời bắt đạo: ‘Liên đới với các Thánh Tử Đạo’ và ‘Liên đới của các Thánh Tử Đạo’, chúng tôi nghĩ rằng: Bài học lớn chúng ta có thể và phải múc lấy không nguyên nơi các Thánh Tử Đạo, mà nơi tập thể dân Chúa ở Việt Nam trong thời gian hơn ba trăm năm bách hại, là ‘sống liên đới, sống đoàn kết, sống tương trợ, sống hiệp nhất’ với nhau trong mọi phạm vi và hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta hôm nay. Quả vậy, giữa bối cảnh đất nước giặc giã, tranh quyền vương bá, xã hội tham nhũng, thối nát, đời sống đói khổ, bon chen và tôn giáo đầy mê tín, dị đoan… mà Giáo Hội Việt Nam đã có thể khai sinh, lớn lên, phát triển, chịu đựng và vượt qua những cuộc bắt đạo phũ phàng, là nhờ một trong những yếu tố vừa tự nhiên vừa siêu nhiên, chính là tinh thần liên đới phúc âm. Tự nhiên, bởi vì tinh thần liên đới đã nằm sâu trong máu mủ, trong tâm thức, được thể hiện trong lịch sử oai hùng và sáng rực trong văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Siêu nhiên, bởi vì tinh thần liên đới tự nhiên nơi mỗi người, mỗi dân tộc bắt nguồn từ sự liên đới hiệp thông của Chúa Ba Ngôi, từ giáo huấn Tin Mừng. Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là vừa phải phúc âm hóa tinh thần liên đới tự nhiên của dân tộc, đồng thời phải sống đức tin kiên trì và anh dũng cho tinh thần liên đới phúc âm được hiện thực trong mọi phạm vi liên đới tự nhiên của dân tộc. Bằng cái chết anh dũng vì đức tin, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh này. Nói một cách khác theo chủ đề cuốn sách, ‘Các Thánh Tử Đạo đã thăng hoa văn hóa Việt Nam’. Và đây chính là bổn phận phải được nối tiếp, chu toàn bởi chúng ta là hậu duệ của các Ngài. Mong thay!



--------- 



(1) Trần Trọng Kim, ‘Việt Nam Sử lược’ II, nxb Bộ Giáo Dục, 1930, tr.353-354.
(2) Trần Trọng Kim, ‘Luân Lý Giáo Khoa Thư’, in lần thứ ba, 1941, tr. 3-4
(3) Vũ Thành, ‘Dòng Máu Anh Hùng’ 1, 2, 3 nxb Thanh Sinh Công, Hoa Kỳ, 1987. Trong bài này chúng tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH 1, 2, 3 tr…). Chúng tôi trích dẫn hoặc viết theo cuốn sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn sách, chúng tôi yên tâm về nguồn tài liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã dày công nghiên cứu và xử dụng.
(4) Xem Nguyễn Đồng Chi ‘Kho tàng chuyện cổ tích’ cuốn 5, nxb Văn Nghệ Sàigòn, 1993, tr. 68-73,129-134.
(5) Kinh Sách ‘Các bài đọc’ tập 4, lễ chung các Thánh Tử Đạo, tr. 748, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999, Sài gòn.
Thánh Anrê Trần Văn Trông – Binh sĩ (+1838)
Thánh Vinh Sơn Tường - Nông dân (+1862)



Lm. Mai Đức Vinh
Vs. Đoàn Quốc Khánh
VietCatholic Network

0 nhận xét:

Đăng nhận xét