Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

Phòng CLHB: Thông báo án oan sai và yêu cầu Giám đốc thẩm


LTCGVN (10.12.2013)
Sài Gòn – Phát hiện Bản án hình sự phúc thẩm số 230/2008/HSPT ngày 10/3/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh (xét xử Ông Nguyễn Văn Tiên) vi phạm pháp luật và kiến nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục Giám đốc thẩm (“Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT”).
Căn cứ qui định tại Điều 274 Bộ luật TTHS, cha Giuse Đinh Hữu Thoại, Trưởng phòng Công lý và Hòa bình (CLHB) thuộc DCCT, thông báo và đề nghị Chánh án TANDTC xem xét giải quyết: Có kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT để xét xử Giám đốc thẩm, căn cứ Điều 286, khoản 1 Điều 107 Bộ luật TTHS tuyên hủy Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT và đình chỉ vụ án do Ông Nguyễn Văn Tiên không có hành vi phạm tội.

—-
Ngày 9 tháng 12 năm 2013
THÔNG BÁO
V/v: Phát hiện Bản án hình sự phúc thẩm số 230/2008/HSPT ngày 10/3/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh (xét xử Ông Nguyễn Văn Tiên) vi phạm pháp luật và kiến nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục Giám đốc thẩm (“Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT”).
Kính gởi: CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO – HÀ NỘI

Tôi là công dân: ĐINH HỮU THOẠI, Trưởng Văn phòng Công lý & Hòa bình – Dòng Chúa Cứu Thế – Địa chỉ: 38 Kỳ Đồng, quận 3, TP.HCM.
Thông báo với Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao:

I. Tóm tắt nội dung, theo trình bày của Ông Nguyễn Văn Tiên và hồ sơ photo kèm theo
1.         Nguyên, năm 1987 gia đình Ông Nguyễn Văn Tiên (Người bị kết án theo Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT) được UBND phường 10, TP.Vũng Tàu giao cho khai hoang và sử dụng một lô đất với diện tích khoảng 17 ha để nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Sau đó gia đình Ông Tiên có khai hoang thêm được khoảng 6,5 ha đất nữa để sử dụng.
Ngày 13/03/1993 Ông Tiên đã đăng ký sử dụng đất tại UBND phường 10 Tp. Vũng Tàu với diện tích sử dụng đất là 234.635m2 thuộc các thửa số: 05, 06, 07, 08, 18 và 220; Tờ bản đồ số 04, 06, 95 tọa lạc tại phường 10 Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (“BR-VT”).
2.         Ngày 13/03/1993 UBND tỉnh BR-VT có Quyết định 326/QĐ-UBT về việc giao đất cho Ban quản lý công trình Sở Xây dựng tỉnh BR-VT làm chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp Đông Xuyên (trong đó có diện tích đất nêu trên) rồi đền bù cho gia đình Ông Tiên với số tiền là: 951.932.000 đồng.
 3.        Đến năm 1996, gia đình Ông Tiên mới nhận hết số tiền đền bù trên, nên theo công văn 2440/CV-UBT ngày 11/09/1997 của UBND tỉnh BR-VT, Ông Tiên đã khiếu nại lên UBND tỉnh BR-VT yêu cầu được đền bù theo quyết định 31/QĐ-UBT ngày 17/01/1995 của UBND tỉnh BR-VT.
4.         Thay vì được giải quyết, Ông Nguyễn Văn Tiên lại bị kết án tù.

II. Quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại và tố tụng hình sự
-           Ngày 19/10/1998, UBND tỉnh BR-VT có công văn số 3286/UB-VP gửi Viện kiểm sát, Giám đốc Sở Địa chính, Trưởng Ban quản lý Khu công nghiệp tỉnh và UBND Tp. Vũng Tàu chỉ đạo về việc đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 24/10/1998, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BR- VT có công văn 131/CV-VKS gửi UBND tỉnh BR-VT kiến nghị đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 24/04/1999, UBND tỉnh BR-VT có công văn số 1489/UB-VP về việc chỉ đạo kiến nghị của VKSND tỉnh tại công văn số 131/CV-VKS ngày 24/10/1998 đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính cũng có ý kiến đề nghị sớm giải quyết dứt điểm việc tính toán đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 17/05/1999, Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên & Môi trường) có công văn số 787/CV/ĐC-PC trả lời Sở địa chính tỉnh BR-VT xin ý kiến về việc đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 26/07/1999, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BR-VT có công văn số 87/CV gửi UBND tỉnh BR-VT kiến nghị về việc đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 25/02/2000, UBND tỉnh BR-VT có Quyết định số 921/QĐ-UB về việc thành lập Đoàn thanh tra của tỉnh để thanh tra về quá trình sử dụng đất, việc thu hồi và đền bù của hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 07/07/2000, Ban chấp hành Trung ương Hội nông dân Việt Nam có công văn số 483/CV-HND gửi Ban thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực UBND tỉnh BR-VT đề nghị sớm giải quyết việc đền bù bổ sung cho gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 05/10/2000, Đoàn thanh tra được thành lập theo quyết định số 921/QĐ-UB của UBND tỉnh BR-VT có báo cáo số 696/BC-TTr gửi UBND tỉnh BR-VT báo cáo về quá trình sử dụng đất, việc thu hồi và kiến nghị đền bù bổ sung cho hộ gia đình Ông Tiên.
-           Ngày 05/07/2004, TAND tỉnh BR-VT đã đưa Ông Tiên ra xét sử sơ thẩm lần 01 về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản XHCN” theo điều 136 Bộ luật hình sự 1985 và tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân” vì Ông Tiên không trả lại số tiền 951.932.000 đồng đã nhận đền bù tại Khu công nghiệp Đông Xuyên với mức án 09 năm tù giam. Sau đó, Ông Tiên kháng cáo lên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
-           Ngày 07/12/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM đã đưa Ông Tiên ra xét xử phúc thẩm lần 01. Bản án phúc thẩm số 2816/HSPT ngày 7/12/2004 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM giữ y án sơ thẩm với tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân” và hủy án sơ thẩm về tội: “Chiếm giữ trái phép tài sản XHCN”.
-           Ngày 23/05/2007, TAND tỉnh BR-VT đã đưa Ông Tiên ra xét xử sơ thẩm lần 02. Bản án sơ thẩm số 110/2007/HSST của TAND tỉnh BR-VT tuyên Ông Tiên phạm tội “Chiếm giữ trái phép tài sản XHCN” theo điều 136 Bộ luật hình sự 1985 trong đó tuyên phạt Ông Tiên với mức án 30 tháng tù giam. Sau đó Ông Tiên kháng cáo lên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP.HCM.
-           Ngày 10/03/2008, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM đã đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm lần 02 về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản XHCN” tuyên phạt Ông Tiên y án sơ thẩm, bất chấp các chứng cứ khách quan khác (Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT).

III. Căn cứ kiến nghị Giám đốc thẩm
Xét thấy Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT có kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, theo yêu cầu của Ông Tiên và trách nhiệm Công dân, tôi (Đinh Hữu Thoại) có ý kiến:

1.         Bản án phúc thẩm số 230/2008/HS-PT có kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Cụ thể:
(i)        Trang 5 Bản án phúc thẩm số 230/2008/HS-PT kết luận: “…thấy việc kiểm kê đất của Ban đền bù giải tỏa có nhiều sơ hở, Nguyễn Văn Tiên tự nhận có 17ha đất nằm trong diện tích 611.950 m2 nêu trên và được tổ kiểm kê do Dương Đức Duy, Nguyễn Văn Nghề, Nguyễn Tiến Tâm, Trần Thị Chí…lập biên bản xác nhận khống…” và “…những thành viên của Ban đền bù giải tỏa của tỉnh đã xác nhận khống cho Nguyễn Văn tiên 17ha đất tại Khu công nghiệp Đông Xuyên…”. Thế nhưng, căn cứ điểm a khoản 2 mục I Báo cáo số 696/BC-TTr của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Đoàn TTr ngày 5/10/2000 (“Báo cáo 696/BC-TTr”) xác định: nguồn gốc của “17ha đất mà Ông Tiên đang sử dụng có nguồn gốc từ Nhà nước còn bỏ trống, hoang nằm trong tuyến đê ngăn mặn…Ông Tiên khai hoang và sử dụng ổn định liên tục đến khi Nhà nước thu hồi…” và tại bản tường trình ngày 19/9/1997 Ông Duy – nguyên là Chủ tịch phường 10 cũng nêu “Chúng tôi có giao cho Ông Tiên 17ha đất trũng ngập nước ngoài diện tích của Tập đoàn để Ông Tiên đắp dùng nuôi tôm cá”. Quan trọng hơn, tại Văn bản số 483- CV/HND của BCH TW Hội Nông dân Việt nam đề ngày 7.7.2000 khẳng định: “ Sau khi nghiên cứu 31 văn bản của Tổng Cục Địa chính, UBND Tỉnh, VKS ND Tỉnh, và các ngành có liển quan , tuy còn ý kiến khác nhau, nhưng đa số các văn bản đều cho rằng 17ha đất trống của Ông Nguyễn Văn Tiên đã cải tạo để sử dụng nuôi trồng thủy sản và bồi đắp đê ngăn mặn cho phường 10, theo Luật Đất đai 1988 là hợp pháp”. Và tại Văn bản số 87/CV ngày 26/7/1999 của VKS ND Tỉnh khẳng định “việc không cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho tôi là chưa thỏa đáng …” Và kết luận: “Căn cứ vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, đối chiếu với các qui định của NN….Lô đất 17 ha của Ông Nguyễn văn Tiên sử dụng …hội đủ điều kiện công nhận QSD đất”. Như vậy, trên thực tế, Ông Tiên có sử dụng và canh tác 17 ha đất hợp pháp, hội đủ điều kiện công nhận QSD đất, việc không công nhận QSD đất cho Ông được xác định là “không thỏa đáng”. Bản án phúc thẩm 230/2008/HSPT kết luận “tự nhận…khống” là không phù hợp chứng cứ khách quan, vi phạm Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự (“Bộ luật TTHS”).
(ii)       Trang 6 Bản án phúc thẩm số 230/2008/HS-PT căn cứ vào Công văn số 828/TC-ĐC-TTr của Tổng cục Địa chính cho rằng diện tích đất mà gia đình Ông Tiên đang sử dụng “không có quyền sử dụng đất hợp pháp…chưa có tên trong sổ địa chính của địa phương…” nên gia đình Ông Tiên không được đền bù là không đúng với sự thật khách quan. Bởi lẽ, căn cứ Báo cáo 696/BC-TTr xác định 17ha đất mà Ông Tiên đang sử dụng thuộc trường hợp được đền bù. Tại điểm b khoản 2 mục I nêu rõ rằng “Năm 1993, khi UBND phường 10 tổ chức đo đạc bản đồ địa chính Ông Tiên có đăng ký sử dụng đất trong sổ đăng ký đất vào bản đồ địa chính phường 10…” và “…đất đai ở khu Đông Xuyên – phường 10 chủ yếu là đất ngập mặn sình lầy… nên thuộc diện được miễn giảm thuế nông nghiệp”. Và Theo công văn số 1247 ngày 13/10/1995 của Tổng cục Địa chính kết luận: “17 ha đất của Ông Nguyễn Văn Tiên đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm d khoản 2 mục I: người sử dụng đất đã ổn định, không có tranh chấp phù hợp với quy hoạch, được chính quyền xã, phường, thị trấn xác nhận và làm đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của Nhà nước”. Như vậy, diện tích đất Ông Tiên sử dụng đã có xác nhận của Chủ tịch UBND phường 10, năm 1993 Ông Tiên đã có tên trong sổ địa chính, đã được miễn giảm nghĩa vụ thuế, đất ở ổn định không tranh chấp nên trường hợp của Ông Tiên thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đủ điều kiện được đền bù. Kết luận của Bản án hình sự phúc thẩm số 230/2008/HS-PT là sai.

2.         Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Cụ thể:
(i)        Về khái niệm “Chiếm giữ trái phép tài sản” được hiểu là “cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật”. Như đã phân tích thì Ông Tiên được giao sử dụng 17ha là theo chủ trương của Chính quyền địa phương phường 10. Hơn nữa, theo điểm a khoản 2 mục I của Báo cáo 696/BC-TTr “tại biên bản cuộc họp ngày 3/2/1998 về việc thực hiện công văn 3626/UB.VP ngày 12/11/1998 của UBND tỉnh, ông Lưu Văn Hoan – Bí thư và Bùi Văn Kính – Chủ tịch UBND phường 10 cũng xác nhận việc giao đất cho Ông Tiên để khai thác sử dụng và trả nợ vay ngân hàng 2.000.000đ khi Tập đoàn tan rã và phải động viên nhiều lần Ông Tiên mới nhận…” . Cho nên không thể nào kết luận 17ha đất giao cho Ông Tiên là “giao nhầm”.
(ii)       Điều 136 Bộ luật hình sự 1985 quy định về tội Chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa” là: “…người nào không trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị giao nhầm…”. Đối với số tiền đền bù là 951.932.000 đồng mà chủ đầu tư chi trả cho gia đình Ông Tiên tại khu Công nghiệp Đông Xuyên được Ông Tiên nhận làm 09 đợt từ tháng 12/1993 đến 07/1996 mới nhận hết số tiền đền bù. Thử hỏi số tiền là 951.932.000 đồng – một số tiền rất lớn, vào thời điểm đó – mà những người “chấp bút” ra quyết định 31/QĐ-UBND ngày 17/01/1995 của UBND không suy nghĩ, xem xét, xin ý kiến, chỉ thị cấp trên hay sao và “giao nhầm” tới 09 lần? Hơn nữa, Dự án Khu Công nghiệp Đông Xuyên có 08 hộ sử dụng đất như gia đình Ông Tiên đã được UBND tỉnh BR-VT ban hành quyết định 2690 ngày 05/11/1998 đề bù bổ sung theo quyết định 31/QĐ-UBND ngày 17/01/1995 của UBND. Vậy tại sao 08 hộ gia đình đó không có sự “nhầm lẫn” khi giao nhầm tài sản xã hội chủ nghĩa như gia đình Ông Tiên? Và nếu giao nhầm thì các người “giao nhầm” có bị xử lý gì? Quan trọng là, giả thiết xác định Ông Tiên “tự nhận…khống…” để lấy tiền (nếu có) là thuộc trường hợp “chiếm đoạt” tiền khác với “giao nhầm”. Áp dụng qui định tội về “giao nhầm” (nếu quả thực Ông Tiên có hành vi ) cũng là sai pháp luật. Từ những căn cứ trên cho thấy, Ông Tiên được UBND giao đất theo chủ trương của Nhà nước phù hợp với quy định của pháp luật không có sự “giao nhầm”. Việc kết tội Ông Tiên “Chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa” là không phù hợp pháp luật.

KIẾN NGHỊ
Qua toàn bộ nội dung trình bày trên, để đảm bảo sự thật khách quan, đảm bảo tôn trọng pháp luật, căn cứ qui định tại Điều 274 Bộ luật TTHS, tôi thông báo và đề nghị Chánh án TANDTC xem xét giải quyết: Có kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT để xét xử Giám đốc thẩm, căn cứ Điều 286, khoản 1 Điều 107 Bộ luật TTHS tuyên hủy Bản án phúc thẩm số 230/2008/HSPT và đình chỉ vụ án do Ông Nguyễn Văn Tiên không có hành vi phạm tội.
Trân trọng,

_________________
ĐINH HỮU THOẠI
Nguồn: VRNs

0 nhận xét:

Đăng nhận xét