LTCGVN (31.12.2013)
Sứ điệp của ĐTC Phanxico cho
Ngày hòa bình thế giới lần thứ 47
cử hành vào ngày 01-01-2014
Đức Giáo Hoàng Phanxico đã chọn tình huynh đệ làm đề tài cho
sứ điệp đầu tiên của ngài cho Ngày hòa bình thế giới năm 2014.Theo ngài, tình
huynh đệ là một ân huệ cho mỗi người nam nữ khi sinh ra là con người. Mọi người
là con cùng một Cha, vì thế tất cả đều là anh em, có nghĩa vụ phải đùm bọc yêu thương nhau . Nhưng từ
buổi đầu lịch sử, người anh đầu tiên, vì ghen tương, đã nhẫn tâm giết chết em
mình, đổi tình thương yêu ra lòng thù oán.
Trong chương trình cứu chuộc.«Con Chúa đã làm người và ở giữa chúng
ta».Ngài đã thắng hận thù, đem lại cho con người tình phụ tử đối với Chúa Cha
và tình huynh đệ đối với tha nhân.
Theo ĐTC tình huynh đệ phải được thể hiện và bảo vệ như một
khía cạnh của quyền con người, trong tất cả mọi liên hệ của con người trên các
lãnh vực chính trị, kinh tế, tài chánh và phát triển xã hội.vì thế ngài tố cáo
«Ở nhiều nơi trên thế giới, sự vi phạm trầm trọng những quyền căn bản
của con người, nhất là quyền sống và quyền tự do tín ngưỡng vẫn hoành hành»
Về mặt chính trị ĐTC tố cáo những chính quyền không đại diện
cho tự do của người dân, không mang lại lợi ích cho người dân. Ngài tố cáo sự
can thiệp của đảng phái trong bộ máy chinh quyền :« Một cộng đoàn chính trị vì thế phải hoạt động một cách trong
sáng và có trách nhiệm để tạo thuận lợi cho việc thực hiện những điều nói trên
[tạo nên một thế quân bình giữa tự do và
công lý, giữa trách nhiệm cá nhân và sự liên đới đoàn thể, giữa ích lợi cá nhân và lợi ích công cọng]. Người dân phải cảm thấy mình được đại diện bởi chính quyền trong việc
tôn trọng tự do của mình. Ngược lại, thường xảy ra việc giữa người dân và
tổ chức công quyền lại còn có thế lực
đảng phái xen vào làm cho mối quan hệ nói trên trớ thành sai lệch và tạo
nên một bầu khí đối kháng triền miên
Về mặt kinh tế và xã hội ngài khẳng định quyền sở hữu tài sản,
nhưng phải dùng nó để mưu ích chung cho xã hội loài người ;« Chúng ta không được quên giáo huấn của Giáo
hội về cái gọi là thế chấp xã hội, theo đó, như thánh Thomas d’Aquin nói, «con
người được phép hay hơn thế nữa, cần phải có quyền sở hữu tài sản»[12], còn về
việc sử dụng «không bao giờ được xem những gì mình sở hữu như hoàn toàn là của
riêng mình, nhưng cũng phải xem đó là của chung theo nghĩa là nó không chỉ làm
lợi cho riêng mình mà còn phải làm ích cho cả kẻ khác nữa»
Vè hòa bình ngài « gửi
một lời kêu gào mạnh mẽ đến tất cả những ai đang dùng khí giới gieo rắc tàn bạo
và chết chóc, xin các anh hãy nhận diện người em của các anh trong con người mà
hôm nay các anh chỉ xem như là một địch thủ phải tru diệt, và hãy dừng tay
lại !
Ngàii kêu gọi hãy biến cái « toàn cầu hóa của sự vô cảm».hiện
nay thành cái «toàn cầu hóa tình huynh đệ»
Vinh
Mỹ dẫn nhập và chuyển
ngữ
*****************************
Tình huynh đệ là nền tảng và con
đường dẫn tới hòa bình
1. Trong
Sứ điệp đầu tiên nầy của tôi cho Ngày hòa bình thế giới, tôi muốn gửi đến tất
cả, cá nhân cũng như dân tộc, lời nguyện chúc một đời sống đầy niềm vui và hy vọng.
Qủa vậy, trong thâm tâm của mọi người, nam cũng như nữ đều ấp ủ ước nguyện có một
đời sống sung mãn trong đó gồm niềm khao khát không thể kiềm chế một tình huynh
đệ cho họ được hiệp thông với những người khác, mà họ coi không như thù địch mà
là người anh em để đón nhận và chào mừng..
Quả thế, tình huynh đệ là một chiều kích chính
yếu của con người vì con người là một hữu thể liên hệ. Ý thức sâu sắc về tính
liên hệ đó dẫn chúng ta đến việc xem và đối xử với mỗi người như là một người anh
chị em đích thực; nếu không thì việc kiến tạo một xã hội công bằng, một nền hòa
bình vững chắc và lâu dài sẽ là một việc bất khả thi. Và lập tức phải nhớ rằng
tình huynh đệ thường bắt đầu được học hỏi trong khung cảnh gia đình, trên hết
là nhờ vào sự đóng góp theo trách nhiệm và sự bổ sung của mọi thành phần, đặc
biệt là của người cha và người mẹ. Gia
đình là nguồn của mọi tình huynh đệ và do đó nó cũng là nền tảng và là con
đường đầu tiên dẫn đến hòa bình bởi vì theo thiên chức, nó phải chinh phục thế
giới bằng tình yêu.
Sự kiện con số những mối liên hệ và truyền
thông ngày càng tăng, bao trùm toàn thế giới làm chúng ta cảm nhận rõ thêm ý
thức rằng các dân tộc trên trái đất là một, và cùng chia sẻ một định mệnh.
Trong những động thái của lịch sử cũng như trong những dị biệt của chủng tộc,
của các xã hội và văn hóa, chúng ta cũng thấy mầm móng xu hướng hình thành một cộng
đồng qui tụ những anh em tìm gặp nhau và chăm sóc cho nhau. Nhưng xu hướng đó ngày
nay trong một thế giới mà sự vô cảm được toàn cầu hóa, thường bị cản trở và bị
thực tế phủ nhận, nó làm cho chúng ta «quen» dần với cái đau khổ của kẻ khác
bằng cách tự khép mình lại.
Ở nhiều nơi trên thế giới, sự vi phạm trầm
trọng những quyền căn bản của con người, nhất là quyền sống và quyền tự do tín
ngưỡng vẫn hoành hành. Hiện tượng buôn người tàn nhẫn vẫn còn tồn tại; người ta mặc cả làm tiền không chút ngượng ngùng
trên tính mệnh và sự tuyệt vọng của họ, đó là một dẫn chứng điển hình đáng lo
ngại về điểm nói trên. Ngoài những chiến tranh bằng vũ lực còn có những cuộc
chiến ít nhìn thấy nhưng không kém phần khốc liệt diễn ra trong lãnh vực kinh
tế và tài chánh với những phương tiện không kém ác nghiệt giết hại sinh mạng, tàn
phá gia đình và doanh nghiệp.
Như Benoit XVI đã khẳng định : sự toàn cầu hóa đưa chúng ta đến gần nhau
nhưng không làm chúng ta trở thành anh em [1] Vã chăng những hoàn cảnh chênh lệch, đói nghèo
và bất công biểu lộ không những sự thiếu sót trầm trọng tình huynh đệ mà cũng biểu
lộ sự vắng bóng một nền văn hóa liên đới. Những ý thức hệ ngày nay có đặc điểm
là đều nhiếm chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị kỷ và chủ nghĩa tiêu thụ vật chất
đã làm suy giảm mối liên hệ xã hội, vì nó nuôi dưỡng thứ tâm trạng «phế thải»,
dẫn đến sự khinh dễ và bỏ rơi những người yếu kém, những người được xem là «vô dụng».
Như thế, sự kiện con người sống với nhau càng ngày càng giống với một «do ut des» thực dụng và ích kỷ.
Đồng thời, chúng ta thấy rõ là nền luân lý
hiện đại cũng trở thành bất lực trong việc tạo ra các liên hệ đích thực của
tình huynh đệ vì rằng một tình huynh đệ nếu không có liên hệ đến người Cha
chung như là nền móng tối hậu thì không tài nào tồn tại được [2]. Một tình
huynh đệ đích thực giữa người với người giả thiết và đòi hỏi một tình phụ tử
siêu việt. Sự thừa nhận tình phụ tử nầy là khởi điểm để củng cố tình huynh đệ giữa người với người,
nghĩa là đưa đến thái độ làm cho mình trở thành «người thân cận» để chăm lo cho
người khác.
«Em của
anh đâu?» (Gn 4,9)
2. Để
hiểu rõ hơn khuynh hướng đưa con người đến tình huynh đệ, để nhận dạng một cách
thích đáng hơn những chướng ngại ngăn cản chúng ta trong việc thể hiện khuynh
hướng nầy và khám phá ra con đường để vượt thắng chướng ngại đó, điều cần thiết
là phải nhận sự hướng dẫn của ý định của Thiên Chúa như đã được diễn tả một
cách tuyệt vời trong Thánh Kinh.
Theo chuyện kể về nguyên thủy thì tất cả mọi
người đều do một cha mẹ sinh ra, do Adam và Eva, một đôi lứa được Chúa dựng nên
theo hình ảnh và giống Người (cf Gn 1,26). Hai người sinh ra Caïn và Abel. Trong
biến cố gia đình đầu tiên, chúng ta đọc thấy sự hình thành của xã hội, sự tiến
triển của sự giao thiệp giữa người và giữa các dân tộc.
Abel là mục tử, Caïn là nông dân. Căn cước
thâm sâu và cũng là thiên chức của họ chính là thiên chức làm anh em, và cũng gồm
cả sự dị biệt trong sinh hoạt và văn hóa, về phong cách liên hệ với Chúa cũng
như với tạo vật. Nhưng việc Abel bị Caïn giết chết chứng tỏ một cách bi đát sự
dứt khoát từ khước thiên chức làm anh em. Câu chuyện của họ (cf. Gn 4, 1-16) chứng
tỏ một cách rõ ràng việc mọi người sống đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau như được mời
gọi là chuyện rất khó.. Caïn không chấp nhận việc Thiên Chúa thương Abel hơn vì
đã dâng cho Ngài con vật tốt nhất đàn [«Chúa vui nhận Abel và của lễ anh dâng,
nhưng không vui nhận Caïn và của lễ của ảnh»] đã giết chết Abel vì ghen tương. Thế
là anh đã từ khước việc xem mình là anh, có một liên hệ tích cực vói em mình, từ
khước sống trước mặt Thiên Chúa bằng việc nhận trách nhiệm của mình là chăm sóc
và bảo trợ người khác. Khi Chúa kêu Caïn và hỏi «Em của anh đâu?» là có ý đòi
anh ta phải trả lời về việc anh đã làm, và anh ta trả lời : «Tôi
không biết . Phải chăng tôi là đứa giữ em?» (Gn 4,9). Rồi Sách Sáng Thế ký
nói ; «Caïn rút lui ra khỏi sự hiện diện của Chúa» (Gn 4, 16).
Phải tìm hiểu lý do sâu xa đã thúc đẩy Caïn
phủ nhận mối liên hệ anh em cũng như liên hệ hỗ tương và hiệp thông ràng buộc
anh ta với Abel. Chính Thiên Chúa đã tố cáo và khiển trách Caïn đã tiếp cận với
cái ác : « Tội lỗi phải chăng đã ở trước cửa nhà anh?» (Gn 4,7). Dù
sao Caïn đã không chống lại cái ác và quyết định «xông vào giết em là Abel »
khinh thường dụ định của Thiên Chúa. Anh cũng vi phạm thiên chức nguyên thủy là
sống như con của Chúa và sống tình anh em.
Câu chuyện Caïn và Abel cho ta thấy nhân
loại được phú bẩm thiên chức anh em, nhưng cũng có khả năng là tái diễn cái
thảm kịch phản bội lại thiên chức đó. Chứng cớ là lòng ích kỷ thường ngày đã là
nguồn gốc cho bao nhiêu chiến tranh và bao điều bất công, Nhiều người nam và nữ
đã chết dưới bàn tay của những người anh những người chị đã từ khước mình là
anh là chị, nghĩa là như những hữu thể được tác tạo để thi hành sự tương trợ,
sự cảm thông và hiến tặng.
«Và
chúng con tất cả đều là anh em» (Mt 23,8)
3. Một
câu hỏi tự phát được đặt ra: Những người nam cũng như nữ trên thế giới phải
chăng sẽ không bao giờ hoàn toàn đáp ứng được nỗi thèm khát tình huynh đệ mà họ
đã được người Cha là Thiên chúa phú bẩm?
Liệu họ có thể tự sức mình chiến thắng được sự vô cảm, lòng ích kỷ và
thù hận để chấp nhận những khác biệt thường tình, đặc tính của các anh chị em?
Bằng cách phiên giải lời Chúa, chúng ta có
thể đúc kết như sau câu trả lời Chúa dành cho chúng ta: Bởi vì chỉ có một Cha
la Thiên Chúa nên chúng ta tất cả đều là anh em (cf. Mt 23, 8-9). Nguồn gốc của
tình huynh đệ nằm trong tình phụ tử của Chúa. Đây không phải là thứ tình cha
con có tính cách chung chung, không đặc thù và vô hiệu xét vè quan điểm lịch
sử, nhưng chính là tình yêu có bản vị, xác định và cụ thể một cách lạ lùng của
Thiên Chúa dành cho mỗi một con người (cf Mt 6, 25-30). Như thế đây là tình phụ
tử đã hoàn thành việc nảy sinh ra tình huynh đệ vỉ rằng tình yêu Thiên Chúa,
khi được đón nhận, sẽ trở thành một chất xúc tác lạ lùng hết sức để hoán cải
hiện hữu và những liên hệ với tha nhân, mở lòng con người để thực thi tinh liên
đới và sự chia sẻ năng động.
Một cách đặc biệt, tình huynh đệ con người
được phục hồi trong và bởi Chúa Kitô, trong cái chết và sự sống lại của Ngài.
Thánh giá là «môi trường» tối hậu của nền tảng tình huynh đệ mà con người tự
mình nó không thể phục hồi được. Chúa Kito đã đảm nhiệm thân phận con người để
cứu chuộc loài người, bằng cách yêu chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá
(cf Ph 2,8). Sự sống lại của Chúa đã tái lập chúng ta như một nhân loại mới,
hoàn toàn hiệp thông với thánh Ý Thiên Chúa, với chương trình Thiên Chúa trong
đó có sự thể hiện trọn vẹn thiên chức huynh đệ của con người.
Chúa Giêsu đã làm lại từ đầu chương trình
Chúa Cha bằng việc thừa nhận Ngài là đầu tất cả mọi sự. Nhưng Chúa Kitô, trong
khi chấp nhận cái chết vì tình yêu Cha
đã trở thành nguyên lý mới và tối hậu cho tất cả chúng ta được mời gọi trở
thành trong Ngài những người anh em vì đều là con cùng một Cha. Người chính là
Giao ước, là trung tâm cho việc hòa giải giữa con người và Thiên Chúa, và giữa
anh em với nhau. Trong cái chết trên thập giá của Chúa cùng hàm chứa sự thắng
vượt cái ngăn cách giữa các dân tộc, giữa dân của Giao ước và các dân ngoại đã không
có hy vọng vì cho đến lúc đó họ vẫn còn xa lạ với những cam kết của Giao ước..Như
chúng ta đọc trong Thư Thánh Phaolo gửi giáo hội Ephésiens, chính nơi Ngài, đức
Kitô đã hòa giải tất cả mọi người. Ngài là Hòa bình vì từ hai dân tộc, Ngài đã làm
thành một, phá hủy bức tường ngăn cách đôi bên, đó là sự thù hận. Ngài đã tạo
dựng trong Ngài chỉ một dân tộc duy nhất,
chỉ một con người mới, chỉ một nhân loại mới (cf 2, 14-16).
Người nào chấp nhận sự sống chúa Kitô và
sống trong Ngài sẽ thừa nhận Chúa là Cha và phó thác tất cả thân mình cho Ngài,
yêu mến ngài hơn tát cả mọi sự. Con người đã được hoán cải sẽ xem Chúa là Cha
của mọi người và vì thế được cổ võ mở rộng tình huynh đệ cho tất cả mọi người.
Trong Chúa Kitô, tha nhân được đón nhận và yêu thương như là con của Chúa, như
anh chị em, không phải như người xa lạ, càng không phải như đối thủ hay kẻ thù.
Trong gia đình Thiên Chúa, tất cả đều là con cùng một Cha. Và vì được ghép thân
vào với Chúa Kitô, làm con trong Chúa Con, nên không còn những « kiếp sống
phế thải ». Tất cả được hưởng một phẩm giá đồng đều và bất khả xâm phạm.
Tất cả đều được Chúa thương yêu, tất cả đều được cứu chuộc bởi Chúa đã đổ máu,
chết và sống lại cho từng người một. Đó là lý do tại sao chúng ta không thể
dững dưng vô cảm trước số mệnh của các anh em.
Tình
huynh đệ là nền tảng và là con đường đưa tới hòa bình
4.
Sau những trình bày trên đây, chúng ta dễ hiểu rằng tình huynh đệ là nền tảng
và con đường đưa tới hòa bình. Những tông thư về xã hội của các đấng tiền nhiệm
của tôi đã mang lại nhiều đóng góp quí báu trong chiều hướng đó. Chúng ta chí
cần đọc lại những định nghĩa chữ hòa bình
trong tông thư Populorum Progressio
của Phaolô VI hay Sollicitudo Rei
Socialis của Gioan Phaolo II. Tông thư đầu cho chúng ta biết rằng sự phát
triển toàn diện của mọi dân tộc là danh từ mới của chữ hòa bình [3]. Trong tông
thư thứ hai, hòa bình là opus
solidaritatis [4].
Phaolo VI đã khẳng định rằng không những con
người mà các dân tộc phải gặp gỡ nhau trong tình huynh đệ. Và ngài giải thích.
«Chính trong sự hiểu biết và tình hữu nghị nầy, trong sự hiệp thông thiêng
liêng nầy, chúng ta phải […].cộng tác để kiến tạo một tương lai chung cho nhân
loại [5]. Trách nhiệm nầy trước hết là của những người được ưu đãi hơn hết. Nhiệm
vụ của họ được bắt rễ trong tinh huynh đệ tự nhiên và siêu nhiên và đươc thể
hiện dưới ba hình thức :: nhiệm vụ liên đới đòi hỏi các nước giàu mạnh
phải viện trợ cho các nước kém phát triển ; nhiệm vụ công bằng xã hội đòi
hỏi phải xem xét lại những bất cập trong việc giao tế giữa nước mạnh và nước
yếu để đưa ra những điều khoản hợp lý hơn ; trách nhiệm bác ái toàn diện
bao gồm việc cổ võ một thế giới nhân bản hơn cho tất cả mọi người, một thế giới
trong đó chúng ta có cái gì để cho và để nhận. Tuy nhiên sự tiến triển đó không
là chướng ngại vật cho sự phát triển của người khác [6].
Như thế, nếu chúng ta xem hòa bịnh như là opus solidaritatis thì chúng ta không
thể cùng một lúc nghĩ rằng tình huynh đệ không phải là căn bản cốt yếu của hòa
bình. Gioan Phaolo II cho rằng hòa bình là một thiện hảo không xé lẻ được. Hoặc
là tốt cho tất cả mọi người hoặc không tốt cho một ai cả. Hòa bình chỉ có thể được
thể hiện và được thụ hưởng như là một phẩm chất tốt nhất của cuộc sống và như
là một sự phát triển hợp nhân cách và lâu dài, nếu hòa bình đó đem lại cho mọi
người một «quyết tâm sắt đá và bền bỉ để dấn thân cho quyền lợi chung của mọi
người» [7]. Cái đó ngầm chỉ không được để mình bị lôi cuốn bởi «lòng tham lợi
lộc»«ham hố chức quyền». Phải sẵn sàng để «mình chịu thua kém» cho người khác
được nhờ, thay vì bóc lột họ, và để phục vụ họ thay vì áp bức họ để kiếm lợi
riêng mình […]. «Tha nhân,» dù là cá thể, đân tộc hay quốc gia [không đươc xem]
như là một dụng cụ rẻ tiền nào đó cho chúng ta khai thác khả năng lao động và
sức chịu đựng thể lý để rồi một khi không cần dùng nữa thì vứt ra, trái lại
phải xem họ như là «đồng loại» của ta, như là một «hỗ trợ» cho ta.[8]
Tình liên đới công giáo giả thiết rằng tha
nhân phải được yêu thương không những như «một con người có đủ quyền và có sự
bình đẳng căn bản như các người khác mà còn như là hình ảnh sống động của Chúa
Cha, đã được cứu chuộc bởi máu thánh Chúa Kitô và là đối tượng của hoạt động linh
hoạt của Chúa Thánh Thần »[9], như một người anh em khác. Như vậy, theo Gioan
Phaolo II, ý thức về tình phụ tử chung của Chúa, về tình huynh đệ của tất cả
mọi người trong chúa Kitô, «con trong Chúa Con», về sự hiện diễn và hành động linh
hoạt của chúa Thánh thần làm cho quan niệm về vũ trụ của chúng ta như có một
tiêu chuẩn mới để giải thích ”.[10] để biến cải.
Tình
huynh đệ, bước đầu để thắng nghèo đói
5. Trong
Caritas in veritate, vị tiền nhiệm của tôi đã nhắc nhở thế giói rằng sự vắng
bóng tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa con người đã là nguyên nhân sâu xa đưa
đến cảnh nghèo đói [11]. Trong nhiều xã hội chúng ta kinh nghiệm có sự nghèo nàn
trầm trọng trong việc giao tế vì họ không có một mối liên hệ bền vững trong gia
đình và trong cộng đồng. Chúng ta lo lắng khi chứng kiến càng ngày càng nhiều
những thứ đột quị, những cảnh sống ngoài lề xã hôi, sống cô độc và nhiều hình
thái khác nhau của sự nghiện ngập bệnh hoạn. Những cảnh nghèo đó chỉ có thể
giải thoát được nhờ sự khám phá và thăng tiến những liên hệ anh em trong bối
cảnh gia đình và cộng đồng nhờ việc chia sẽ cho nhau những niềm vui, những nỗi
đau, những khó khăn, những thành đạt trong suốt cuộc đời con người.
Vã chăng, nếu một đàng chúng ta thấy có sự
giảm thiểu đói nghèo tuyệt đối thì dàng khác, chúng ta không thể không thừa
nhận có sự tăng trưởng đáng lo ngại của sự đói nghèo tương đối, nghĩa là có sự
chênh lệch giữa những cá nhân hay những nhóm người cùng sống trong một địa
phương hay trong cùng một bối cảnh lịch sử văn hóa như nhau. Theo như thế, cũng
cần có những chính sách hữu hiệu nhằm cổ võ nguyên tắc tình huynh đệ nhằm bảo
đảm cho con người – vốn bình đẳng về nhân phẩm và trong các quyền căn bản –
được tiếp cận với «nguồn vốn» với những dịch
vụ, với các phương tiện giáo dục, sức khỏe, kỷ thuật, để mỗi người có cơ hội phát
huy tài năng của mình cũng như thực hiện những dự tính cho cuộc đời mình vá có
thể tự phát triển trọn vẹn như một nhân vị.
Cũng cần thiết phải có những chính sách nhằm
làm giảm thiểu sự bất công quá đáng trong việc phân chia lợi nhuận .Chúng ta
không được quên giáo huấn của Giáo hội về cái gọi là thế chấp xã hội, theo đó,
như thánh Thomas d’Aquin nói, «con người được phép hay hơn thế nữa, cần phải có
quyền sở hữu của cải»[12], còn về việc sử dụng «không bao giờ được xem những gì
mình sở hữu như chỉ thuộc về mình, nhưng cũng phải xem đó là của chung theo
nghĩa là nó không chỉ làm lợi cho mình mà cho cả kẻ khác nữa».[13].
Sau hết còn có một phương cách cuối cùng để
cổ võ tình huynh đệ [và cũng để chiến thắng nghèo đói] nó phải được coi là căn
bản của những phương thế khác, đó là lòng siêu thoát của những kẻ lựa chọn một
nếp sống đạm bạc dựa trên những gì thiết yếu, của những kẻ sau khi đã phân phát
hết của cải của mình, đã thành công trong việc thử nghiệm một đời sống hiệp thông huynh đệ với những người khác. Đó
là triệt để đi theo Chúa Giêsu Kito và trở thành người công giáo đích thực. Đó
là trường hợp không những của những người tận hiến, khấn đức nghèo khó, mà cũng
là trường hợp của nhiều gia đình và nhiều cá nhân có tinh thần trách nhiệm. Họ
thâm tín rằng chính cái liên hệ trong tình anh em với người thân cận mới là thứ
của cải quí hơn hết.
Sự
khám phá ra tình huynh đệ trong kinh tế
6, Những
khủng hoảng trầm trọng về tài chánh và kinh tế hiện đại [có thể tìm thấy nguyên
nhân, một phần là vì con người xa dần với Thiên Chúa và người « thân cận »,
say mê tìm kiếm của cải vật chất, và, phần khác là vì sự nghéo nàn của mối liên
lạc giữa cá nhân cũng như cộng đồng] đã thôi thúc nhiều người đi tìm sự thỏa thích,
tìm hạnh phúc và sự ổn định trong sự tiêu thụ và trong lợi nhuận, bất chấp mọi
qui luật, nguyên tắc của một nền kinh tế lành mạnh. Năm 1979 Gioan Phaolo II đã
tố cáo sự hiện diễn của «một nguy cơ có thực và cảm nhận được, đó là :«trong
khi sự thống trị của con người trên thế giới vật chất tiến triển cách khủng
khiếp, con người có nguy cơ đánh mất sợi dây dẫn đạo của sự thống trị đó, nguy
cơ thấy nhân bản của mình bị lệ thuộc vào thế giới đó bàng nhiều cách thế khác
nhau để rồi đến lượt con người cũng trở thành một đồ vật cho người khác sủ dụng
đủ cách – mà nhiều khi mình không biết – qua các tổ chức đời sống cộng đồng,
qua các hệ thống sản xuất, bởi áp lực của các phương tiện truyền thông xã hội».[14].
Sự kiện các khủng hoảng liên tiếp xảy ra làm
cho chúng ta phải có những suy nghĩ mới mẻ thích đáng về những mô hình phát
triển kinh tế và về sự thay đổi lối sống thường ngày. Cái khủng hoảng hôm nay
với cái di sản nặng nề cho đời sống con người có thể trở thành một dịp tốt để
phục hồi những đức tính khôn ngoan, điều
độ, công bình và quả cảm. Nó có thể giúp vượt qua những hoàn cảnh khó khăn và
khám phá lại những sợi dây huynh đệ ràng buộc người nầy với người khác trong
tâm tình tin tưởng sâu xa mà con người cần có, và có khả năng làm một cái gì vượt
quá cái tổng hợp tối đa những lợi lộc riêng của từng người. Những đức tính đó
là cần thiết, trước hết là cho sự kiến tạo và bảo toàn một xã hội hợp với tầm
vóc của phẩm giá con người.
Tình
huynh đệ dập tắt lửa chiến tranh
7. Trong
năm vừa qua, nhiều anh chị em của chúng ta phải tiếp tục sống kinh nghiệm thê
thảm của chiến tranh, một vết thương trầm trọng đánh vào tình huynh đệ.
Biết bao cuộc chiến vẫn tiếp tục trong sự hờ
hững của mọi người. Với nhứng người đang sống trên những mảnh đất nơi mà khí
giới đang gieo rắc kinh hoàng và đổ nát, tôi xin anh em tin rằng cá nhân tôi và
Giáo hội luôn ở bên cạnh các anh chị em. Giáo hội có sứ mệnh đem tình thương
Chúa cho những nạn nhân vô tội của những
cuộc chiến bị bỏ quên bằng những lời cầu hòa bình, bằng việc chăm sóc người bị
thương tật, người đói khát, người dời cư, người di tản và tất cả những người
sống trong sợ hãi, Giáo hội cũng lên tiếng để thấu đến tai những người có trách
nhiệm tiếng kêu đau thươmg của nhân loại đau khổ và để làm chấm dứt, cùng với chiến
tranh, mọi lạm dụng mọi vi phạm những quyền căn bản của con người[15].
Vì thế, tôi muốn gửi một lời kêu gào mạnh mẽ
đến tất cả những ai đang dùng khí giới gieo rắc tàn bạo và chết chóc, xin các
anh hãy nhận diện người em của các anh trong con người mà hôm nay các anh chỉ
xem như là một địch thủ phải tru diệt, và hãy dừng tay lại ! Hãy từ khước
giải pháp quân sự và đi đến với họ bằng sự đối thoại, sự tha thứ và giải hòa để
tái tạo lại nền công lý, lòng tin cậy, và niệm hy vọng xung quanh các
anh ! «Theo nhãn quan đó, chúng ta thấy rõ rằng trong đời sống các dân tộc,
những tranh chấp võ trang luôn luôn là sự cố tình phủ nhận bất kỳ thỏa thuận quốc
tê nào bằng cách gây ra những chia rẽ trầm trọng và những vết thương sâu rộng
phải có nhiêu năm mới hàn gắn lại được. Các cuộc chiến tranh là sự từ khước cụ
thể việc dấn thân để đạt tới những tiêu chuẩn lớn lao về kinh tế và xã hội mà cộng
đồng quốc tế nêu ra»[16].
Tuy nhiên, bao lâu một số lượng vũ khí lớn
lao còn lưu hành như hiện nay thì người ta sẽ còn luôn luôn tạo ra được những
cái cớ để khai chiến. Vì lẽ đó tôi mượn lời kêu gọi của các vị tiền nhiệm nhằm
ủng hộ chiến dịch không phát tán khí giới và giải giới toàn bộ, bắt đầu bằng
việc loại trừ khí giới nguyên tử và khí giới hóa học.
Nhưng chúng ta không thể không nhận thấy
rằng những công ước quốc tế cũng như luật lệ quốc gia, mặc dầu cần thiết và rất
đáng cổ võ, nhưng cả hai giải pháp đó đều không đủ để bảo toàn nhân loại khỏi
cái họa xung đột võ trang. Một hoán cải tâm hồn là điều cần thiết, nó làm cho
mỗi người nhận ra tha nhân là một người anh em phải đùm bọc, phải cùng hoạt
động để kiến tạo một đời sống sung mãn cho tất cả. Đó là tinh thần làm sống dậy
nhiều sáng kiến của xã hội nhân sự, kể
cả các tổ chức tôn giáo ủng hộ hòa bình. Tôi ước vọng những dấn thân hằng ngày
của mọi người tiếp tục đem lại kết quả
và đi đến việc áp dụng hiệu nghiệm, trong khuôn khổ luật pháp quốc tế,
quyền sống hòa bình như là một quyền căn bản của con người, điều kiện tiên
quyết cần thiết để thi hành tất cả những quyền khác.
Sự
tham nhũng và tội ác có tổ chức ngăn cản tình huynh đệ
8. Viễn
tượng tình huynh đệ chiếu soi sự tăng trưởng viên mãn của tất cả con người nam
cũng như nữ. Những hoài bảo chính đáng
của một con người, nhất là người trẻ, không được bị tước đoạt hay bị chấn
thương. Hy vọng có thể thực hiện những hoài bảo đó không được bị đánh cắp. Tuy
nhiên hoài bảo, tham vọng ở đây không được nhầm lẫn với sự tham lam biển thủ. Trái lại, cần phải có sự
tranh đua trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau (cf Rm 12,10). Cũng thế, trong những
tranh chấp, một khía cạnh không tránh khỏi của cuộc sống, chúng ta phải luôn
luôn nhớ mình là anh em và vì thế phải giáo dục, tự giáo dục để không xem người
kia như một kẻ thù hay một địch thủ phải loại bỏ.
Tình anh em đẻ ra hòa bình xã hội vì nó tạo
nên một thế quân bình giữa tự do và công
lý, giữa trách nhiệm cá nhân và sự liên đới đoàn thể, giữa ích lợi cá nhân và
lợi ích công cọng. Một cộng đoàn chính trị vì thế phải hoạt động một cách trong
sáng và có trách nhiệm để tạo thuận lợi cho việc thực hiện lý tưởng đó. Người
dân phải cảm thấy mình được đại diện bởi chính quyền trong việc tôn trọng tự do
của mình. Ngược lại, thường xảy ra việc giữa người dân và tổ chức công quyền
lại còn có thế lực đảng phái xen vào làm cho mối quan hệ nói trên trớ thành sai
lệch và tạo nên một bầu khí đối kháng triền miên.
Một tinh thần huynh đệ chính cống sẽ chiến
thắng lòng ích kỷ cá nhân ngăn cản người ta sống với nhau một cách tự do và hài
hòa. Tính ích kỷ đó phát triển trên bình diện xã hội hoặc dưới những hình thức
biển thủ hối lộ đang lan tràn khắp nơi, hoặc trong việc thành lập nhiều tổ chức
tội ác [từ những nhóm nhỏ cho đến những tổ chức qui mô bao quát] Những tổ chức tội ác đó đánh thẳng vào trung
tâm của nhân phẩm con người bằng cách hủy hoại tận gốc luật lệ và công lý.
Những tổ chức nầy xúc phạm mạnh đến Thiên Chúa, tác hại người anh em và phản lại
sự tạo dựng. Càng tồi tệ hơn nũa khi các tổ chức đó lại có sắc thái tôn giáo.
Tôi nghĩ đển thảm kịch khốc hại ma túy.người
ta lợi dụng nó để làm giàu bất chấp mọi luật lệ luân lý hay dân sự. Tôi nghĩ đến
việc tàn phá tài nguyên thiên nhiên, đến những ô nhiễm hiện hành, đến thảm họa
bóc lột nhân công. Tôi nghĩ đến việc buôn lậu tiền tệ cũng như những đầu cơ tài
chánh nhiều khi có tính cách cướp giât và làm phương hại cho tất cả những hệ
thống kinh tế hay xã hội, đưa hàng triệu người, nam và nữ đến cảnh nghèo đói.
Tôi nghĩ đến nạn mãi dâm mỗi ngày đánh ngã gục không biết bao nhiều là nạn nhân
vô tội, nhất là những người trẻ, đánh cắp mất tương lai của họ. Tôi nghĩ đến
chuyện buôn người quái gỡ, đến những tội ác lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, đến
nạn nô lệ còn gieo rắc khiếp khủng trên nhiều nơi trên thế giới, đến thảm kịch những
người di tản bị làm ngơ, để mặc họ làm mồi cho những tính toán làm tiền bỉ ổi ngoài
vòng pháp luật. Gioan XXIII đã viết về vấn đề nầy như sau : «Một xã hội
chỉ xây dựng trên tương quan về sức mạnh là một xã hội không có gì là nhân bản:
nó nhất thiết sẽ đàn áp sự tự do của con người thay vì hỗ trợ và cổ võ để phát
triển và kiện toàn tự do đó»[17]. Nhưng con người có thể hối cải và không bao
giờ được thất vọng về chuyện có thể cải thiện đời sống. Tôi muốn sứ điệp nầy là
một sứ điệp về lòng Tin tưởng cho tất cả mọi người, cả cho những người đã phạm
những tội ác ghê gớm bởi vì Thiên Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng
muốn cho họ hoán cải và muốn cho họ sống (cf. Ez 18, 23).
Trong bối cảnh rộng lớn của xã hội con
người, nói đến chuyện phạm pháp và hình phạt, chúng ta cũng nghĩ đến những điều
kiện vô nhân đạo của bao nhiêu là nhà tù, trong đó tù nhân thường bị giáng
xuống trạng thái «dưới người», nhân phẩm của họ bị xúc phạm, tiếng nói bị bóp
chẹt làm mất hết ý chí cải thiện. Giáo hội đã có nhiêu đóng góp trong những
lãnh vực đó và thường hoạt động trong âm thầm. Tôi thúc đẩyvà khuyến khích phải
luôn làm nhiều hơn nữa với hy vọng rằng những hoạt động như thế được đảm nhiệm
bởi biết bao người nam nữ can trường sẽ được nâng đỡ bởi những quyền bính dân
sự một cách ngay thẳng và chính đáng.
Tình
huynh đệ góp phần vào việc bảo tồn và vun trồng tạo vật.
9.. Gia
đình nhân loại đã nhận chung một món quà của Thiên Chúa, đó là thế giới tự
nhiên. Quan niệm công giáo về sự tạo dựng hàm chứa một đánh giá tích cực vế sự hợp
pháp của những khai thác tạo vật để tìm lợi ích, với điều kiện là phải hành
động một cách có trách nhiệm, nghĩa là phải tôn trọng «văn phạm » ghi khắc
trong đó và sử dụng cách khôn ngoan những tiềm lực của nó để mưu ích cho tất cả
mọi người, tôn trọng cái thẩm mỹ, cái cứu cánh và cái hữu dụng của mỗi sinh vật
và chức năng của nó trong hệ thống sinh thái. Nói tắt rằng, tạo vật là để chúng
ta sử dụng, và chúng ta có bổ phận điều hành một cách có trách nhiệm.Trái lại,
chúng ta thường để điều khiển bởi lòng tham vọng, bởi tính kiêu căng hiếu
thắng, bởi thích chiếm hữu, táy máy, vụ lợi; chúng ta không gìn giữ tạo vật,
chúng ta không xem đó là một ân huệ được cho không mà chúng ta phải gìn giữ và để
cho anh em mình sử dụng, kể cả những thế hệ tương lai.
Đặc biệt, ngành nông nghiệp là ngành sản
xuất đầu tiên có trọng trách sinh tử phải trồng trọt và bảo tồn nguồn tài
nguyên thiên nhiên để nuôi nhân loại. Về điểm nầy, sự tồn tại dai dẵng đáng xấu
hổ của nạn đói trong thế giới thúc đẩy tôi chia sẻ với các bạn câu hỏi sau
đây : Chúng ta phải dùng nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng cách nào? Ngày
nay các xã hội phải suy nghĩ về bậc thang các ưu tiên trong việc lựa chọn sản
xuất. Thật vậy, là một nhiệm vụ bức thiết việc quyết định dùng những tài nguyên
của trái đất bằng cách nào để tất cả nhân loại được giải thoát khỏi cảnh đói
khổ. Có rất nhiều sáng kiến và giải pháp
khả thi và không dừng lại ở việc tăng thêm sản xuất. Ai cũng thừa biết mức sản
xuất hiện nay đã khá đủ,: tuy thế vẫn cò hàng triệu người đau khổ và chết vì
đói và đó thật là một xi-căng-đan. Như vậy điều cần thiết là phải tìm ra phương
cách để tất cả có thể thụ hưởng những sản phẩm của trái đất, không những để
tránh làm chênh lệch hơn cái khoảng cách giữa những người có nhiều hơn và những
người chỉ được nhặt những mảnh vụn, nhưng cũng vì và nhất là vì sự đòi hỏi của
công lý, của công bình và của lòng tôn trọng đối với bản thể con người. Hiểu
như thế, tôi muốn nhắc nhở tất cả mọi người là tài sản thiên nhiên nhất thiết phải
dành chung cho tất cả mọi người, đó là một trong những nguyên lý chỉ đạo của
giáo lý xã hội của Giáo hội công giáo. Tôn trọng nguyên lý trên là điều kiện
chính yếu để mọi người có thể tiếp nhận một cách hữu hiệu và cân xứng những tài
nguyên mà họ có nhu cầu và có quyền sử dụng.
Kết
luận
10 Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu
chuộng, thử nghiệm, loan truyền và làm chứng tá. Tuy nhiên chỉ có tình yêu Chúa
ban mới làm cho chúng ta có thể tiếp đón và sống trọn vẹn tình huynh đệ.
Chính trị và kinh tế cần thiết phải dựa trên
thực tế;,nhưng cái thực tế đó không thể giảm thiểu thành một thứ kỷ thuật không
lý tưởng, bỏ quên chiều hướng siêu nhiên của con người. Khi thiếu sự mở
lòng đón nhận Thiên Chúa, thì mỗi sinh
hoạt của con người trở thành nghèo nàn hơn, và con người bị liệt xuống hàng đồ
vật để người ta lợi dụng. Chỉ khi nào con người chấp nhận đi vào cảnh giới rộng
lớn nhờ mở cửa đón Đấng thương yêu mỗi người nam cũng như nữ, thì khi đó chính
trị và kinh tế sẽ mới thành công trong việc chỉnh đốn cơ cấu trên nền tảng bác ái huynh đệ đích thực và có thể trở thành
một dụng cụ hữu hiệu cho sự phát triển toàn diện nhân loại và cho nền hòa bình.
Chúng tôi, những người công giáo, chúng tôi
tin rằng trong Giáo hội chúng tôi tất cả đều là cơ thể, ngưới nầy là cơ thể của
người khác, tất cả đều cần lẫn nhau vì mỗi người trong chúng tôi đều nhận được
một ân huệ tùy thuộc vào hồng ân của Chúa để mang lại lợi ích chung cho cộng
đồng (cf Ep 4, 7 . 1Co 12,7). Chúa Kitô đã đến trong thế gian để mang lại cho
chúng ta hồng ân Chúa, nghĩa là cho thông hiệp với sự sống Chúa. Điều nầy hàm
chứa việc móc nối những quan hệ anh em, tìm trao đổi, tha thứ, hoàn toàn xả
kỷ bắt chước tình yêu cao cả và sâu xa
Chúa dành cho nhân loại khi Ngài cho Con mình chịu đóng đinh trên thập giá, chết
và sống lại kéo theo tất cả về với Ngài : «Thầy cho anh em một điều răn
mới là anh em hãy yêu thương nhau. Như thầy đã yêu thương anh em, anh em
cũng hãy yêu thương nhau. Cái làm cho tất cả mọi người biết anh em là môn đệ
thầy chính là tình thương yêu anh em dành cho nhau.» (Jn 13, 34-35).
Tin mừng này đòi hỏi mỗi người phải tiến
thêm một bước nữa, phải không ngừng tập luyện để tìm sự đồng cảm, biết lắng
nghe cái đau khổ và nguyện vọng của người khác, kể cả của những người xa mình,
dấn thân trên con đường quả cảm của thứ tình yêu biết hiến thân và chịu khổ
thân không vị lợi mà để làm ích cho mọi anh chị em khác.
Chúa Kitô yêu thương đùm bọc mọi người và
không muốn một ai đị lạc mất «Thiên Chúa sai Con mình đến thế gian không phải
để kết án thế gian nhưng để, nhờ Người mà thế gian được cứu rỗi» (Jn 3, 17).
Người đã cứu độ mà không áp chế, không cưỡng bách một ai phải mở cữa tâm tình
và lý trí của mình để đón ngài. Chúa nói: «Người lớn nhất trong anh em hãy nên
như người nhỏ nhất, và người làm chủ hãy nên như người phục vụ»;«phần thầy, thầy
sống giữa anh em như một người phục vụ» (Lc 22, 26.27)
Như thế, tất cả mọi sinh hoạt phải được mang
dấu ấn của ý nghĩa phục vụ con người, dặc biệt những người xa xôi nhất, những
người vô danh tiểu tốt nhất. Phục vụ là linh hồn của tinh huynh đệ xây dựng hòa
bình.
Xin mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu giúp chúng ta
hiểu và sống mỗi ngày tình anh em xuất phát từ trái tim Con của Mẹ ngõ hầu đem
lại hòa bình cho mọi người sống trên quả đất thân yêu nầy của chúng ta
Làm tại Vatican ngày 8 tháng 12 năm 2013
Đức giáo
hoàng Phaxicô
Vinh Mỹ chuyển ngữ
[1] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29
tháng 6 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[2] Xem ĐTC Phanxicô, Thông Điệp Lumen fidei (29 tháng 6 2013), 54: AAS 105 (2013), 591-592. [3] Xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 87: AAS 59 (1967), 299. [4] Xem ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 39: AAS 80 (1988), 566-568. [5] Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 43: AAS 59 (1967), 278-279). [6] Xem ibid., 44: AAS 59 (1967), 279. [7] Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 38: AAS 80 (1988), 566. [8] Ibid., 38-39: AAS 80 (1988), 566-567. [9] Ibid., 40: AAS 80 (1988), 569. [10] Ibid. [11] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 5 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655. [12] Summa Theologiae II-II, q. 66, art. 2. [13] Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. sulla Chiesa nel mondo contemporaneo Gaudium et spes, 69. Cfr Leone XIII, Lett. enc. Rerum novarum (15 maggio 1891), 19: ASS 23 (1890-1891), 651; Giovanni Paolo II, Lett. enc. Sollicitudo rei socialis (30 dicembre 1987), 42: AAS 80 (1988), 573-574; Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, n. 178. [14] Thông Điệp Redemptor hominis (4 tháng 3 năm 1979), 16: AAS 61 (1979), 290. [15] Ủy ban Công Lý và Hòa Bình, Tóm lược Giáo Thuyết xã Hội Công Giáo, số 159. [16] ĐTC Phanxicô, Thử gửi Tổng thống Putin, 4 tháng 9 năm 2013: L’Osservatore Romano, 6 tháng 9 năm 2013, trang 1. [17] Thông Điệp Pacem in terris (11 tháng 4 năm 1963), 17: AAS 55 (1963), 265. |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét