PHI LỘ – Bài này trích từ một cuốn sách của tác giả Robert Stackpole,
STD. Đây là dạng bài “cao cấp” về lý luận thần học về Lòng Chúa Thương Xót của một
vị Thánh Tiến sĩ Giáo hội, rất sâu sắc và uyên thâm, rất cần đọc để hiểu biết
thêm, và để có thể thực hành đúng lòng thương xót. Kiến thức về Lòng Chúa
Thương Xót cần thiết suốt đời cho mọi người, không trừ ai, nhưng thực sự cần
thiết hơn đối với những người đang trực tiếp tham gia hoạt động trong các cộng
đoàn Lòng Chúa Thương Xót.
Ai cũng là tội nhân, vì thế ai cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Được
thương xót rồi thì phải biết thương xót người khác, chứ đừng như con nợ không
biết xót thương (x. Mt 18:23-35).
Đối với Thánh Thomas, nhân đức thương
xót có hai phương diện: “lòng thương xót xúc động” (affective mercy) và “lòng
thương xót tác động” (effective mercy).
Lòng thương xót xúc động là một cảm
xúc: Cảm thương nỗi khốn khổ của người khác. Đối với vấn đề này, Thánh Thomas nói
rằng lòng thương người có nền tảng về “nhược điểm” trong bản chất: Sự khiếm khuyết
của con người về tính dễ bị đau khổ. Chúng ta cảm thấy thương những người chịu
đau khổ vì chúng ta cũng là người bị những đau khổ như vậy. Như vậy, sự cảm
thông với người khác nảy sinh từ khả năng thấu cảm. Thánh Thomas nói: “Những người tự nhận mình hạnh phúc và khỏe
mạnh đến nỗi không bị bệnh thì có thể họ không biết động lòng trắc ẩn” (Tổng
luận Thần học, II-II.30.2).
Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, cường
độ của “lòng thương xót xúc động” ở chúng ta đối với sự đau khổ của người khác cũng
tùy vào mối quan hệ thân thiết với người khác: “Ai yêu thương thì coi bạn mình như chính mình, và coi đau khổ của
người bạn như của mình, cảm thấy thương họ như thương mình” (Tổng luận Thần
học, II-II.30.2). Chúng ta có thể nói rằng mối quan hệ tình cảm dễ hình thành giữa
bạn bè với nhau, và điều này tạo nên những người bạn tốt có thể cảm thông nỗi
khổ của nhau. Ví dụ, khi chúng ta nghe nói người bạn, người thân hoặc người yêu
sẽ phải đại phẫu, tự nhiên chúng ta cảm thấy thương họ, và chúng ta tự nhủ: “Tôi có thể hình dung bạn tôi lo lắng thế
nào trước khi phẫu thuật”. Chúng ta có thể “hình dung” điều đó vì chúng ta
đã từng bị bệnh và cần được điều trị. Sự thấu cảm này là điều mà Thánh Thomas có
ý nói về “lòng thương xót xúc động”.
Mặt khác, “lòng thương xót tác
động” là điều chúng ta làm, đó là hành động tích cực vì điều tốt của người khác,
cố gắng giảm bớt đau khổ hoặc thỏa mãn nhu cầu của người khác. Theo Thánh
Thomas, từ Latin misericordia có nghĩa đen là “có trái tim khổ sở” – cả về
“xúc động” và “tác động” – về nỗi khổ của người khác. Ví dụ, khi chúng ta nghe nói
người bạn của chúng ta sắp chịu phẫu thuật, chúng ta không chỉ cảm thông mà
chúng ta còn có thể có kế hoạch đi thăm trước và sau phẫu thuật để an ủi người
bạn đó. Đây là “lòng thương xót tác động” vì nó thỏa mãn nhu cầu của người khác.
Nói cách khác, đó là sự cảm thông “xúc động” chuyển thành “tác động” vì điều
tốt của người khác.
Thánh Thomas nhận thấy có ba “nỗi
khổ” trong cuộc đời:
• Thứ nhất, nỗi khổ trái ngược với lòng khao khát tự nhiên về sự hiện
hữu và sự sống: Nỗi khổ của người bệnh.
• Thứ nhì, nỗi khổ xảy đến bất ngờ: Nỗi khổ do tai nạn.
• Thứ ba, nỗi khổ cực độ: Nỗi khổ khi người ta theo đuổi điều tốt, nhưng
lại gặp điều ác.
Ở đây Thánh Thomas nghĩ về những
nỗi khổ và những điều bất hạnh khiến người ta đành lòng ráng chịu, những nỗi
khổ không đáng phải chịu của người vô tội và người đạo đức. Trong Cựu ước, Thánh
Gióp là tấm gương điển hình về dạng đau khổ này. Ngài bị đủ thứ khổ sở dù không
đáng phải chịu.
Thánh Thomas tranh luận rằng lòng
thương xót của con người cần phải là cả “lòng thương xót xúc động” và “lòng
thương xót tác động”. Tuy nhiên, để là nhân đức thương xót đích thực, phải có
hai đặc tính.
• Thứ nhất, phải có căn nguyên “đúng lý”. Nghĩa là, về sự thật đau khổ
của người khác, và thực sự đó là “điều tốt” khách quan đối với người khác mà
chúng ta tìm cách giúp đỡ. Ví dụ, người nghiện rượu có thể bị chao đảo và run
rẩy vì thiếu rượu, nhưng “lý do chính đáng” đề nghị rằng cách tốt nhất đối với
vấn đề của người này không là cho họ ly rượu, dù nghĩ rằng điều đó tạm thời làm
giảm nỗi khổ của họ – và dù họ có thể xin rượu! Điều thương xót cần làm là cung
cấp cho người nghiện rượu cái gì thực sự cần thiết theo khách quan: Cai rượu.
• Thứ nhì, nhân đức thương xót được chứng tỏ trong hành động hiệu quả (lòng
thương xót tác động) đối với điều tốt của người khác, khi có thể. Nếu chúng ta
chỉ “cảm thông” với nỗi khổ của người khác và “chia sẻ nỗi đau khổ của họ” mà
không tìm cách thức hiệu quả để giúp đỡ họ, thì nhân đức thương xót không tồn
tại trong chúng ta tới mức độ cao.
Thánh Thomas đưa ra hai câu hỏi
liên quan:
1. Lòng thương xót có là nhân
đức cao cả nhất? Chắc
chắn bao hàm sự cao thượng và sự cao quý, đến nỗi “lòng thương xót tác động” là
sự giảm bớt nhu cầu và nỗi khổ của người khác để không “thừa thãi”. Chúng ta
giúp người khác bằng của cải, kiến thức, kỹ năng hoặc sức mạnh khi chúng ta
thấy người khác cần sự giúp đỡ như vậy. Theo nghĩa đó, lòng thương xót là hành
động chiếu cố của người có “dư” sự may mắn nào đó để mà chia sẻ với người kém
may mắn hơn mình. Nếu người có lòng thương xót lại “có điều kiện” (nghĩa là có
điều gì đó hoặc thứ gì đó để chia sẻ), rồi nhân đức chính của họ sẽ là điều nối
kết họ với sự “có điều kiện” của họ. Trong trường hợp con người, nhân đức “bác
ái” là điều kết hiệp họ với Thiên Chúa (vì Thiên Chúa không cần lòng thương xót):
“Do đó, vì con người có Thiên Chúa ở trên
cao, đức ái kết hiệp với Thiên Chúa là điều lớn hơn lòng thương xót, làm giảm
cảnh khổ của người khác” (Tổng luận Thần học, II-II.30.4). Mặt khác, khi
chúng ta cân nhắc nhân đức nào sẽ “quản lý” các mối quan hệ của chúng ta với tha
nhân, rõ ràng lòng thương xót đó trực tiếp đến với những người thiếu thốn chính
là nhân đức cao thượng nơi con người (Tổng luận Thần học, II-II.30.4).
2. Lòng thương xót có là thuộc
tính cao cả nhất của Thiên Chúa? Thánh Thomas nói rằng vì Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối, là Đấng
sáng tạo tự hữu và hoàn hảo, Ngài không bao giờ vị kỷ, nhưng luôn luôn và chỉ
hành động với lòng đại lượng vị tha, tuôn đổ điều tốt dư đầy lên các thụ tạo
của Ngài. Do đó, tỏ lòng thương xót là điều phù hợp với Thiên Chúa theo cách
đặc biệt, vì điều đó thể hiện sự hoàn hảo vô tận của Ngài, sự dư đầy vô hạn và
sự đại lượng vô hạn của Ngài. Thánh Thomas viết: “Nếu chúng ta cân nhắc một nhân đức theo sự sở hữu của nó, chúng ta có
thể nói rằng lòng thương xót là nhân đức lớn nhất trong các nhân đức nếu chính
nhân đức đó lớn nhất, không ai ở trên ngài và mọi người đều ở dưới Ngài” (Tổng
luận Thần học, II-II.30.4). Dĩ nhiên, điều này chỉ đúng về Thiên Chúa. Như vậy,
theo nghĩa đó, lòng thương xót là thuộc
tính quan trọng nhất của Thiên Chúa.
Vậy theo Thánh Thomas, Lòng Chúa
Thương Xót là gì? Đó không thể là cảm xúc hoặc tình cảm vì Thiên Chúa hoàn hảo
vô cùng và bất biến, Ngài không thể thay đổi các cảm xúc “xảy ra” với Ngài, “khắc
phục” Ngài, hoặc làm giảm sự viên mãn của Ngài bằng bất cứ cách nào. Như vậy, Thánh
Thomas nói rằng Lòng Chúa Thương Xót “tác động”, chứ không “xúc động”. Nói cách
khác, lòng thương xót của Ngài được diễn tả trong hành động tích cực mà tình
yêu là liệu pháp chữa trị đau khổ và thỏa mãn nhu cầu của các thụ tạo, chia sẻ
với họ trong sự hoàn hảo của Ngài. Thánh Thomas viết: “Cảm thấy buồn về nỗi khổ của người khác không là thuộc tính của Thiên
Chúa, nhưng loại trừ đau khổ mới là thuộc
tính của Ngài, và ở đây chúng ta có ý nói tới bất kỳ nhược điểm nào. Các khuyết
điểm không được loại bỏ để cứu vớt mà để đạt được sự thiện, và như chúng ta
nói: Thiên Chúa là nguồn mạch sự thiện”
(Tổng luận Thần học, I.21.3).
Theo Thánh Thomas, trên hết mọi
điều, sự tha tội là biểu hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tha tội là quyền
tuyệt đối của Thiên Chúa: Tình yêu Thiên Chúa chứng tỏ mạnh hơn tội lỗi và sự
dữ. Khi con người tha thứ cho nhau, chúng ta kiềm chế cơn giận dữ, đè nén sự
phẫn uất, và hủy bỏ mọi cách trả thù. Nhưng chúng ta không thể miễn giảm chính
các khuyết điểm. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thay đổi ý muốn của kẻ bất lương
và làm cho họ ăn năn. Theo nghĩa này, chỉ có Thiên Chúa mới có thể miễn giảm
tội lỗi. Như vậy, Lòng Chúa Thương Xót vô cùng mạnh mẽ để triệt tiêu tội lỗi,
tái sinh và thánh hóa tội nhân.
Ví dụ, chúng ta thấy quyền phép của
Lòng Chúa Thương Xót trong Tân ước, vì Chúa Giêsu không chỉ tha tội cho người
bại liệt được người ta khiêng đến với Ngài, mà Ngài còn chứng tỏ quyền năng
Thiên Chúa làm như vậy bằng cách chữa lành thể bệnh của người đó: “Để các ông biết ở dưới đất này, Con Người
có quyền tha tội: Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác lấy chõng của anh mà đi
về nhà!” (Mc 2:10-11).
Thật vậy, Thánh Thomas nói: “Tha thứ cho người khác là thương xót họ, đó
là việc to lớn hơn việc tạo dựng thế giới” (Tổng luận Thần học, I-II.113.9).
Hành động đưa thế giới vào hiện hữu là công trình vĩ đại, nhưng theo sự vĩ đại của
công trình được thực hiện, sự bào chữa cho người không công chính là việc làm vĩ
đại hơn, vì điều đó có giá trị hiệu quả vĩnh viễn. Các linh hồn được thánh hóa và
được công chính hóa sẽ sống mãi trong Nước Chúa, vì rồi thế giới này sẽ qua đi
mà thôi – chẳng chóng thì chày!
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Marian.org)
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN
THUONG NGUOI KHAC DE DUOC THUONG XOT LAI DO LA KET QUA TOT O DOI NAY TINH BAC AI ,TU THIEN CUNG TUONG TU ?
Trả lờiXóa