Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

Chân dung hay chân tướng nhà văn


LTCGVN (13.06.2012) 

Chân dung hay chân tướng nhà văn

Kính gửi quý vị bạn đọc
Mới đây, tại GP Phát Diệm, những cuộc đón rước hồ hởi, lấy làm vinh hạnh đối với các tay trùm cộng sản như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Thị Doan v.v… đã thể hiện nhiều vấn đề đáng nói. Đặc biệt là mới đây, Tòa GM Phát Diệm còn mang hoa đến chúc mừng kỷ niệm lần thứ 65 ngày Thành lập Đảng bộ CS tại Kim Sơn, lần thứ 58 ngày Giải phóng Kim Sơn và nhận Huân chương Độc lập Hạng ba – một phần thưởng của nhà cầm quyền CSVN cho những đóng góp của Cộng sản ở Phát Diệm về nhiều thành tích, trong đó có thành tích quốc doanh hóa Giáo hội Công giáo tại địa phương này.
Trong quá trình cộng sản hóa đất nước, nhiều cuộc bách hại tinh vi, nhiều mưu mô bẩn thỉu đã được thi hành đối với đồng bào tôn giáo nói chung và Giáo hội công giáo nói riêng. Tất cả phục vụ mục tiêu đặt ra là loại trừ tôn giáo ra khỏi xã hội.
Đối với Phật Giáo, những cuộc cài cắm sư sãi là cán bộ công an, đảng viên đã là chuyện bình thường. Còn đối với Giáo hội Công giáo khi việc cài cắm các chức sắc là khó khăn, thì nhà cầm quyền đã dùng nhiều cách hết sức thâm độc và tinh vi khác nhau như hạn chế đào tạo, tìm mọi cách tranh thủ các đấng bậc hoặc gài bẫy các chức sắc buộc phải khuất phục và phục vụ ý đồ của họ.
Đặc biệt, việc dùng tiền bạc của nhân dân, dùng những tên nô lên bồi bút sáng tác hàng loạt tác phẩm xuyên tạc, vu khống và bôi nhọ có tính hệ thống đối với Công giáo đã thành một chủ trương từ đầu đến nay. Ở đó có các bút nô như Chu Văn, Nguyễn Khải, Vũ Huy Anh v.v… với các sản phẩm như Bão biển, Giáp mặt, Ngày lễ Thánh, Đối mặt, Cha con và… Thế nhưng, sự đời không đơn giản chỉ là một chiều. Đến lúc sự thật được sáng tỏ, những tay bồi bút và sản phẩm của họ sẽ là tiếng nhơ muôn đời đối với bản thân và gia đình họ.
Chỉ tiếc rằng ngay trong Giáo hội Công giáo vẫn có nhiều người không hiểu âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền CSVN trong những công việc này. Thậm chí chính ngay cả các chức sắc trong Giáo hội.
Nữ Vương Công Lý đăng bài viết của Nhà văn Nhật Tuấn nói về chân dung hay chân tướng các nhà văn cộng sản. Qua đó chúng ta hiểu những âm mưu của nhà cầm quyền CSVN đối với Công giáo trong chiến tranh văn hóa và sự nô bộc hèn hạ và bẩn thỉu của Cộng sản đối với Công giáo như thế nào.
Bài viết của tác giả nhiều kỳ, chúng tôi đăng gộp vào đây để tiện cho bạn đọc theo dõi nên khá dài, mong bạn đọc thông cảm.
Nữ Vương Công Lý

Cha và con và…

Nguyễn Khải, một bút nô của CSVN
Hồi tháng 2 năm 2006, nhà văn Nguyễn Khải trả lời phỏng vấn  báo Tuổi Trẻ.
“Nếu người ta gọi ông là nhà văn thời sự thì ông buồn hay vui?” và”thời sự hình như không mấy tương đồng với sức sống lâu dài của một tác phẩm. Chủ quan mình, ông nghĩ  tác phẩm nào của mình sẽ có được  cái lâu dài ấy?”
Nhà văn Nguyễn Khải sốt sắng trả lời:
“Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ của một”chuyện hôm nay”, của cái”bây giờ”nhưng vẫn làm nhiều thế hệ bạn đọc xúc động…Phần mình, tôi nghĩ”Một cõi nhân gian bé tí”,”Cha và con và…”,”Điều tra về một cái chết”cùng một số truyện ngắn của tôi có được cái thân phận ấy của con người…”
Vậy là trong vài chục tác phẩm, Nguyễn Khải đã chọn”Cha và con và…”là một trong vài tác phẩm ông cho rằng có thế để đời, còn lại mãi với thời gian. Viết xong vào tháng 8 năm 1978 , xuất bản ngay trong năm, dày vỏn vẹn chừng 200 trang  và sách vừa in ra đã được”phê bình gia” Vương Trí Nhàn bốc lên mây xanh trên báo Văn Nghệ với cái tựa to tát: “Cha và con và…triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội“.
Ghê gớm chưa?
Vậy giá trị thực của cuốn truyện này ra sao?
Cha và con và…”lại cũng xoay quanh chủ đề ‘bôi bác nhà thờ”như hai tập tiểu thuyết”Xung đột”. Đó là câu chuyện về một linh mục trẻ, mới ngoài ba mươi, tên Thư được  Toà Giám mục cử về”nhậm chức thầy cả”ở xứ Nhất. Về địa phương, trước hết cha phải tới trình diện chính quyền xã. Cái cách đối xử của cán bộ uỷ ban làm cha không được vui, phàn nàn với ông chánh trương:
“Cả cái uỷ ban của các ông nữa. Họ để tôi leo cả mấy bậc thềm , tự bước vào trong nhà, tự đến trước bàn giấy của bà Chủ tịch ngả mũ chào, rồi bà ta mới đứng lên chào lại. Bà ta là Chủ tịch thật nhưng còn là con chiên của Chúa. Chúa chiên đến mà con chiên dám xử sự vậy sao?”
Tuy nhiên, đó mới chỉ là nỗi phiền lòng đầu tiên ông cha trẻ gặp phải khi tới nhậm chức ở vùng đất mới. Chờ đợi ông ta ở phía  trước còn vô số những”chọc phá”, những ‘đòn phép”bổ vào đầu ông mà đau đớn thay không phải từ phía chính quyền vốn”thù địch”với nhà thờ , mà lại từ phía những con người thuộc phe ông – những  linh mục già, chánh trương, trùm trưởng, con chiên …luôn luôn giăng bẫy trên đường đi tới của cha linh mục trẻ mới nhậm chức.
Trước tiên, cha linh mục trẻ phải tới gặp cha linh mục già để nhận”bàn giao”. Mới qua vài ba câu chuyện, cha trẻ đã nhận ra tính cách xỏ xiên của cha già:
“Lạy Chúa ! Tại sao ông già này lại nói nhiều về sự yếu lẫn của mình. Ông già ấy định giăng cái bẫy nào đây?”Lời nói như gan ruột , nhưng cái miệng thì bỡn cợt , con mắt thì hấp háy, biến ảo quá chừng”
Cha trẻ cúi mặt thở dài rất nhỏ, lái câu chuyện sang hướng khác…’
Một cha trẻ mới ngoài 30 tới nhậm chức, một cha già ngoài 80 sắp về với Chúa phải rời chức. Hai cha đối xử với nhau thật chẳng khác gì hai quan cán bộ trẻ già hằm hè nhau khi bàn giao ghế.
Hành hạ”cha trẻ”vậy nhưng”cha già”vẫn chưa chịu buông tha. Tới bữa ăn”cha già”còn”quay”một hồi nữa khiến ”cha trẻ”cảm giác”bữa cơm kéo dài như một hình phạt. Chẳng phải vì một già một trẻ , một cũ một mới , một cha quản hạt và một cha mới nhậm chức, mà còn vì một cái gì khác nữa, chưa rõ rệt , rất khó dò tìm đã khiến vị linh mục trẻ mất hẳn phương hướng đối đáp trong những mẩu chuyện vặt vãnh không đầu không đuôi…”
Thoát được”cha già”,”cha trẻ”được phái về xứ Nhất nơi còn biết bao nhiêu điều phiền tạp chờ đợi  cha. Trước hết,”lễ nghênh tiếp vị chủ chiên của ban hành giáo hàng xứ rất đúng phép tắc , nhưng gượng gạo, vênh váo…”. Lẽ ra theo thông lệ, cuộc tiếp rước phải”cờ phướn, có chè chén, tối có đánh bạc” nhưng chính quyền không cho phép. Chỉ còn lại”những trình bẩm, ban truyền, những ân sủng, kính cáo , toàn những chữ nghĩa đã chôn đi, đã quên đi từ đời kiếp nào , nay phải móc lên cả lượt.”. Cái cảnh ông già bà cả cung kính chào cha chăn dắt linh hồn được ông nhà văn riễu là”ông già cúi người trước một chàng trai trẻ, xưa là thế , vì  nó còn là con vua cháu chúa, còn nay mà thế tự nghĩ cũng ngược lẽ, cũng nực cười…”
Không biết nghĩ tới thời cả dân tộc phải gọi một”ông trẻ”mới ngoài 50 bằng”bác”xưng cháu, Nguyễn Khải có thấy”nực cười”như vậy chăng?
Trong đám  rước đón cha, có ông trùm họ An Cựu,”đội khăn xếp, áo thâm dài, đi giày mũi nhọn, lại cắp cả ô nữa mà trời vẫn nắng ráo” liền bị chê cười”Ông trưởng khu lên hầu cụ lớn  đấy à?”.Để biến việc đón rước cha thành một vở hí kịch, ông nhà văn cho ông trùm An Cựu đi tới trước mặt cha”quỳ hẳn gối vái một vái , ông hổn hển đứng dậy vái thêm một vái nữa và cứ bước giật lùi”,chẳng ngờ”gót giày lại dẫm ngay vào bàn chân bà trưởng hộị khấnkhiến bà đang véo von chúc thày cả liền kêu thét như bị ai cấu, dùng cả hai tay ấn mạnh ông trùm ra một bên, miệng nói the thé: Mắt mù hay sao mà giẫm nát cả chân tôi”
Bôi bác kiểu”hề chèo”vậy thật thô thiển và tiểu nhân. Chưa hết, khi con chiên còn đang xúm xít đón cha Thư thì”một tiếng gọi hết sức bất ngờ , hết sức rành rẽ: “Anh Thư”. Cả mọi người chết lặng vì tiếng gọi quá sức láo xược của một đứa nữ nào đó…”. Gọi tên cúng cơm của cha bằng”anh”ngay giữa lễ đón tiếp, lại do giọng nữ rất âu yếm thì quả bằng trát bùn vào mặt cha giữa lúc linh thiêng, long trọng nhất. Thế là cả đám rước biến thành một đám trò.”Trong nháy mắt , những tiếng cười bị dồn nén luồn lỏi khắp các nhóm người , đến nỗi các chức dịch hàng xứ đứng hầu cha cũng không dám ngước nhìn vị chủ chăn, e rằng chính mình cũng khó giữ được sự kính cẩn cần phải có. …”
Dùng chuyện”trai gái’ bôi bác linh mục là một trong những”sở trường”của Nguyễn Khải. Khi có tiếng người nữ gọi tên cha âu yếm như vậy, lập tức ông trùm An Cựu”làm ra vẻ bầy tôi sốt sắng“hò hét:
Các người bị ma ám quỷ xui cả sao dám hỗn láo thế? Đứa nào gọi tên cha trước? Đứa nào? Là con cái nhà ai để tôi thưa với cha phạt nó. Nó là đứa nào?”
Thật chẳng ngờ đứa con gái đó lại là thị Thảo, con gái của chính ông làm”đám đông cười vỡ ra. Họ không dám cười linh mục mà chỉ cười cha con ông trùm An Cựu nên có thể cười thật thoả thuê”làm ông trùm trợn mắt:
“Chúng bay đừng có bỏ vạ cáo gian mà sa xuống hoả ngục đời đời. Nhà tao mấy đời thờ phượng Chúa…”
Lại cười , cười như thể đang xem vở tuồng, vở chèo gặp một vai đắc ý. Rồi họ nói chen vào như nói đế:
“Đời ông chỉ biết thờ Chúa, chứ con gái ông chỉ biết thờ các cha thôi…”
Đám đông vỗ tay tán thưởng màn kịch cương, lời lẽ đã hay mà vai diễn cũng hay…”
Than ôi, ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu, Phát Diệm liệu có cái cảnh con chiên đón tiếp đức cha linh hồn về xứ mình hỗn xược như vậy chăng? Ông nhà  văn Nguyễn Khải quả đã khéo xuyên tạc, biến lễ nghi trang trọng của người ta thành trò hề rẻ tiền
Cô Thảo, con gái ông trùm  An Cựu đã cả gan gọi tên cúng cơm của cha giữa đám đón rước, về nhà  còn chớt nhả với bố:
“Ông cụ mới tới nom trẻ đẹp quá, bố ạ…chúng con chỉ thích xem người chứ không xem lễ…”
Ong bố chửi:
“Con nhà  vô phúc, rồi mày kéo cả bố mẹ xuống hoả ngục với mày thôi…”
Nó toét miệng cười:
“Xin mời các cụ lên thiên đàng hầu Chúa, còn con xin đi theo cha xuống hoả ngục?”
Bịa ra con gái một ông trùm đạo cả gan mang đấng chăn chiên ra bỡn cợt ngay cả với bố mình , quả thật ông nhà văn đã tìm ra một hình ảnh quá sinh động diễn tả sự suy đồi của đạo Thiên Chúa tại một xứ toàn tòng.
Công việc đầu tiên của cha mới là xem xét”bình Mình Thánh, chén đĩa, chân đèn, ảnh tượng, khăn bàn, khăn thánh…”. Buồn cho cha, chẳng có vật gì ưng ý,”tất cả đều cũ kỹ, sứt vỡ, hôi mốc, khập khiễng như nhà vắng chủ đã lâu ngày…”. tâm sự cha trẻ lúc này thật ngao ngán”một ông linh mục quá già, một đàn chiên quá đông, thế tất việc chăm sóc phải biếng, sự giảng dậy phải nhác…Công lao vun trồng vườn nho của Chúa suốt mấy chục năm của các đấng bậc  đi trước , rút lại tay không?”.
Ôi chết chết, cứ như diễn tả của ông nhà văn thì quả Thiên Chúa giáo đã đến thời mạt đạo. Gia sản”cha già”để lại cho”cha trẻ”quá èo uột”, cái trách nhiệm gây dựng lại việc đạo cha trẻ phải gánh vác quá nặng nề.”Gai góc lại mọc đầy như thủa ban đầu và dây leo đã sắp bịt kín cả ảnh tượng. Người kế nghiệp trẻ tuổi sẽ bắt đầu công việc khai phá từ đâu?”
Nếu thực sự công giáo trở lại thời vua Tự Đức vậy thì không thấy ông nhà văn chỉ ra ai đã gây nên tình trạng hoang tàn vậy mà chỉ thấy ông cảnh báo linh mục:
Nhân nhượng với đời hay hay đối mặt với đời? Hoặc giả có việc phải đối mặt và cũng có việc phải nhân nhượng? Là người anh em tốt mà vẫn là người chăn dắt tốt. Cười vui với tất cả mà vẫn chỉ huy được tất cả. Đã có giáo sĩ nào trong địa phận biết dung hoà lề luật của nhà Chúa với lề luật của thế tục chưa? Chưa một ai thì phải. Người được toà giám mục hài lòng thì chính quyền căm ghét. Người được chính quyền chiều chuộng thì Tòa  giám mục phải đề phòng. Hoặc là đầu này hoặc là đầu nọ, tìm được một chỗ đứng vững chắc ở quãng giữa thật khó lắm thay…”
Nguyễn Khải coi mối quan tâm lớn nhất của linh mục là làm sao dung hòa Tòa thánh và Nhà nước để giữ vững cái ghế linh mục chứ chẳng  phải chăm lo phần hồn cho con chiên. Vậy khác nào”lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy Chủ tịch huyện mô tả cha xứ?
Nhận định về mẹo xử sự giữa cha cố và chính quyền này đã được nhà phê bình quốc doanh Vương Trí Nhàn nâng lên thành”triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội”? Phình bụng quá cỡ vậy không khéo vỡ bụng ếch mất thôi.
Ngày làm việc đầu tiên, cha Thư như bị dội thùng nước lạnh khi gặp người giúp việc thân cận nhất của mình: ông chánh trương xứ vì”ông ta già quá , ốm yếu quá , kèm nhèm và ngu tối thế nào?”. Và lạ chưa, câu chuyện đầu tiên giữa hai người lại là …tranh luận về cải cách ruộng đất xoay quanh chuyện cụ Thượng trong làng, bỏ tiền xây cất mấy cái nhà thờ sau bị cách mạng xử lý. Ong linh mục nói:
“Địa phận ta còn mắc nợ với Ngài nhiều lắm…”
Ong chánh trương cãi:
“Thưa cha ông ấy còn mắc nợ chúng con rất nhiều…”
Ong cha trẻ gườm gườm nhìn người giúp việc:
“Ruộng đất của người ta, cơ nghiệp một đời của người ta một sớm một chiều mất sạch. Thế còn chưa đủ khổ sở ư?”
Ông chánh trương nói nhỏ nhưng bướng bỉnh:
“Cái khổ cả trăm gia đình chẳng ai biết đấy là đâu. Cái khổ của một nhà lại như chiều ai oán. Cũng là tôi tớ của Chúa mà…”
Người đọc không khỏi buồn cười cái nhân vật”chánh trương”này nói năng chẳng khác gì Bí thư xã. Vậy chắc ông là”chánh trương quốc doanh” Nhà nước cài vào Nhà thờ?
Mang tiếng là”cánh tay phải”, là người giúp việc thân cận cho cha, không hiểu sao vừa mới gặp, ông chánh trương đã giở giọng khủng bố tinh thần:
Thưa cha , năm nay con đã bảy chục tuổi, đã hầu hạ cha già trọn bốn mươi năm…Mắt con đã nhìn nhiều sự đổi thay, người ta hợp nhau rồi người  ta lại chia nhau ra. Hôm qua là cha là con , hôm sau có tao không mày. Hôm qua chén chú chén anh, hôm sau nhét rọ buông sông. Đời người biến ảo khôn lường, một sớm một chiều chưa thể biết được…”
Mới chân ướt chân ráo về giáo phận cha trẻ đã bị cha già răn đe muốn điên đầu, nay lại gặp ông chánh trương buông giọng bí hiểm, doạ nạt về cái sự khó ở đời. Những tưởng ra trường sẽ cùng người nhà Chúa xắn tay áo làm việc đạo , ai ngờ như lạc vào trận đồ bát quái, xung quanh là cả một rừng  gươm giáo.
“Cha trẻ đưa tay lên che mặt, đầu óc quay cuồng , ông rên rỉ:
“Khó  hiểu quá ! Các ông nói gì với tôi mà khó hiểu vậy? Tôi chỉ xin các ông một điều: nếu xứ này còn cần linh mục thì tôi ở lại, dẫu khổ hạnh thế nào tôi vẫn cứ ở. Bằng không thì trả tôi về tòa Giám, đừng dùng mưu mẹo làm nhục tôi , bức hại tôi…”.
Ôi chao, đấng chăn chiên, đức cha tinh thần của cả chục ngàn giáo dân  lại đau buồn, bế tắc”mùi mẫn” như chàng trai si tình bị người yêu ruồng rẫy:
Và, lạy Chúa, con chỉ ước nguyện sẽ được nằm ở cái giường đơn sơ kia mà trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay âu yếm của Chúa”…Cha xứ đã cởi áo, buông màn và nằm xuống, hai tay chắp ngang bụng, thổn thức vì những ý nghĩ thương cảm xa xôi, miệng khẽ gọi những tên cực thánh: Giêsu – Maria – Giuse…”
Liệu một đấng chăn dắt linh hồn của cả một giáo phận có dễ”tủi phận mình”, thổn thức  như một anh đồng cô ẽo uột vậy chăng?
Xây dựng nhân vật cha Thư  ngây ngô, ngớ ngẩn như vậy trách gì các”sự  khó”cứ ùn ùn kéo tới. Sau khi cả gan gọi tên cúng  cơm cha trong buổi tiếp rước, con gái chánh trương lại xin gặp riêng cha với tư cách trưởng hội hát.. Ông cha trẻ chưa trải đời chấp thuận để cô cùng hội hát quyên góp  may áo lễ mới cho cha. Mặc dầu các cô đã  dặn nhau ”Không được nói lại với ai đấy nhá ! Cấm đấy nhá…”nhưng chỉ thời gian sau cả xã đã biết chuyện, gây ra bao tai tiếng làm  ông Chủ tịch mặt trận xã phải tìm tới ông chánh trương phàn nàn:
Tôi nghe con mẹ Tộ vừa la vừa khóc: vậy là mày giết tao. Đứa nào xui mày? Thằng nào con nào xui mày để tao băm vằm nó ra?…Chúng nó chim chuột dăng dện nhau thì mặc mẹ nó chứ , hà cớ gì lại khéo dỗ mày. Mày ăn cơm hay ăn cứt mà dại dột thế?”
Hoá ra con gái bà Tộ lấy bông tai quyên góp may áo mới cho cha làm bà ta chửi toáng: “Đã có ông linh mục nào đến xứ này mà chê tiền không? Mà chê gái không? Tôi cũng là người có đạo tôi không nói vu cho ai bao giờ…”Cha quản hạt thì sao?”– Rụng hết răng thì còn ăn gì được  , giả thử còn đủ cả hai hàm chắc cũng chẳng  từ…”.
Ở giữa một xứ đạo toàn tòng, liệu có một mụ đàn bà oang oang chửi cả cha trẻ lẫn cha già như mất gà mà kẻ cắp lại chính là… các cha không? Hay nhà văn mượn mồm đàn bà bôi xấu linh mục?
Ông chánh trương chẳng những không bênh vực , bảo vệ lại còn tố cáo cha:
Cái ông ấy ( tức cha Thư) đến là dại. Lại còn không biết nó ( thị Thảo) là ai mà dính vào…Lần đầu nó xin gặp cha còn nài tôi cùng ngồi. Mấy lần sau chả thấy ông ấy lý gì tới mình nữa. Không biết đâm mù con mắt xác thịt thì có ngày hỏng…”
Chủ tịch Mặt trận nhân đó riễu  cha:
“Da thịt nó như thế, môi mắt nó như thế, thánh năng ngồi gần còn có khi cháy huống hồ là cha…”
Cứ như thế kẻ tung người hứng, một bên là đại diện nhà thờ, một bên là đại diện chính quyền ra sức bôi bác cha. Tất nhiên việc mấy cô hội hát quyên góp may áo cho cha như vậy là tan ,”thịThảo phải hoàn lại đôi hoa cho mẹ con  bà Tộ. Các nhà góp tiền mua áo  lễ cũng lần lượt kéo tới đòi tiền về…”. Mọi lời đàm tiếu tất nhiên chĩa cả vào cha xứ làm”cha Thư khi được  hay mọi chuyện liền đóng cửa buồng ở lì trong đó cả tuần lấy cớ cảm cúm.”. Từ đó,  mỗi lần làm việc với chánh trương , cha xứ gọi thêm người trong ban hành giáo dự”khỏi mặt đối mặt với ông già nham hiểm quỷ quái…”.
Cái”sự khó”dường như luôn luôn đuổi theo cha Thư. Cơn ông chưa qua cơn bà đã tới. Một hôm cha Thư nhận được  thông tư của Toà Giám mục chỉ thị các xứ đạo tổ chức”bách chu niên đức cha Phước  dâng địa phận Tây đàng ngoài trong tay Đức Mẹ”. Cha Thư tìm tới cha già quản hạt bàn việc tổ chức  không ngờ ông này …bàn lùi :
Đức cha Phước  là tên gọi Việt Nam , còn tên chính của ngài là Puginier …năm ấy, đức cha lại nhận lời ông Ngạc Nhi * đi làm thông ngôn trong cuộc đàm phán giữa người Pháp với các quan giữ thành. …”
Hoá ra cha già quản hạt lại là”người yêu nước”, ông kết tội cha làm ‘thông ngôn”cho Pháp chiếm thành Hà Nội. Bởi vậy thật bất ngờ, cha già thở ra giọng”địch vận”lôi kéo cha trẻ về”tình yêu  nước”:
“Mình là người có đạo thì phải nghĩ theo cách nghĩ của hội thánh. Nhưng mình còn là người Việt Nam nữa nên khó…”
Nghe vậy, lẽ ra cha trẻ phải phản ứng, bảo vệ đức tin , không ngờ chỉ”cúi đầu, thầm nghĩ đau đớn: “Vâng, đúng thế, đúng là thế. Người có đạo là người có tội, tội truyền kiếp, tội của tổ tiên…”
Thái độ khiếp nhược  của cha trẻ làm cha già dấn tới:
Đạo của Chúa đến cùng một lúc với giặc giã kéo đến. Các cố đứng trong đám giặc mà truyền đạo. Người theo đạo thì không thể nghĩ đến nước. Đã nghĩ đến nước thì rất khó theo được đạo…”
Nói năng sặc  mùi”khinh chúa  yêu nước“vậy , ai dám tin là lời lẽ  linh mục già  quản hạt. Choáng váng vì những lời lẽ”báng bổ”phát ra từ miệng cha quản hạt, ông cha trẻ phải thốt lên:
Lậy Chúa, vậy chúng con phải làm gì? Bất tuân toà giám cũng  có tội như bất tuân chính quyền…”
Cha già quản hạt không những không động viên cha trẻ giữ lấy đức tin mà còn cả gan”chửi xéo”đức Thánh Cha:
Đức Thánh Cha ở chỗ cao xa , Ngài không thể biết hết được  những khổ đau của người dân ở xứ này. Ngài chưa thể biết hết lịch sử truyền giáo ở xứ này …”
Những lễ nghi của nhà thờ thường được quy định chi tiết và thực hiện  tôn nghiêm. Ấy thế mà ông nhà văn cũng biến chuyện đó thành…trò hề. Nguyên cha tổng quản địa phận gửi giấy về các xứ nhắc lại lễ nghi chầu phép lành quy định: “ra đền thờ bái một lần, lên trải khăn thánh, mở cửa nhà chầu bái lần nữa. …”. Cha trẻ hỏi cha già đã đọc giấy quy định chưa, cha lắc đầu  bảo chưa rồi lên giọng khinh khỉnh, coi như chuyện tào lao: “Bái bốn lần hả? Ừ thì là bốn lần. Chắc là mọi khi cũng bái đủ cả bốn lần…”
Thái độ vừa báng bổ vừa coi thường phép tắc nhà Chúa của cha già làm cha trẻ phải coi ông ta là”Một ông già đã quá tuổi làm lễ, đã rất hay quên, đã chẳng còn hiểu mình nói gì và sẽ nói những gì…”. Tuy nhiên cha trẻ nhận ngay ra nhận xét thế là sai”Nhưng…hình như không phải là thế, hoàn toàn không phải là như thế…”
Không phải thế thì hẳn là một lão già quỷ quyệt, nham hiểm khoác áo linh mục phá nhà thờ.Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, hai linh mục -  cha già và cha trẻ hiện ra như  hai địch thủ luôn rình rập triệt nhau chứ chẳng phải cùng ”con cái Chúa”hoặc cùng  đấng chăn chiên. Sự thực có thế không?
Quả đắng tiếp theo cha trẻ phải nhận là ông trùm đạo An Thuận nhân việc toà Giám mục cấp sắc cho lập xứ đạo riêng đã tổ chức quyên góp chè chén linh đình và đổ hết trách nhiệm cho cha trẻ. Rất may được ông chánh trương mật báo, ông cha trẻ đã kịp thời ngăn được việc đầy tai tiếng đó và than trời: ” Ai cũng xấu cả thì tôi biết  san sẻ công việc với ai? …Cái miệng lưỡi con người ta gian ngoan thật…”
Tuy nhiên bản lĩnh linh mục của cha trẻ thực sự bị thử thách là trong việc thay mặt nhà thờ làm chứng cho một cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng là bộ đội  ở mãi”vùng ngoại  vi Saigòn. Bị thương rồi mới chuyển ra đây…”, chị vợ cũng là cán bộ. Anh bộ đội được nghỉ phép 15 ngày để lấy vợ, khi tới xin cha làm chứng thì đã qua mất 5 ngày, bởi vậy anh rất muốn cha viết giấy”làm chứng”ngay để hôm sau tổ chức lễ cưới tại nhà thờ. Tuy nhiên, theo luật của hội  thánh , cha vẫn phải hỏi:
“Hai người đã chịu phép rửa tội tại xứ họ nào?”
“Gia đình con vốn ở Lạc Hải , mới về xã được có mươi năm…”
Cha Thư hắng giọng:
“Vậy chị phải xin với cha chánh xứ ở bên đó tờ chứng đã làm phép rửa tội…Phải đã chịu đủ các phép bí tích từ khi lọt lòng tới tuổi lớn không mới có thể cho chịu phép cưới. Luật lệ của Hội Thánh đã định thế …”
Vậy vẫn còn chưa xong, sau khi đã có hai cái giấy chứng đó rồi thì còn phải dự…khảo kinh nữa. Lúc này”anh bộ đội”mới lên tiếng:
Xin thú thật với cha, cả hai chúng tôi  đều đi công tác đã lâu, kinh bổn chắc là không còn thuộc…”
Cha xứ điềm nhiên:
“Nên học lại , vốn đã thuộc thì học lại cũng mau chứ?”
“Chúng tôi chỉ còn ít ngày phép. Một trăm thứ việc đồn lại trong mấy ngày, xin cha thông cảm cho…”
Cha xứ vẫn quyết liệt:
Nếu không theo đúng những luật Hội Thánh đã buộc, dẫu làm phép cũng không thành…”
“Anh bộ đội đưa cặp mắt nhọn nhìn soi mói ông cha đạo từ đầu tới chân như nhìn một giống người xa lạ, trong giọng nói đã có sự thách đố ngấm ngầm. Anh lên giọng: “Chúng tôi đi chiến đấu không dám kể công với những người ở hậu phương, nhưng ở nơi sống chết mới biết bỏ qua những chuyện vặt vãnh…”
Cha xứ cũng giương mắt nhìn lại:
“Đối với người có đạo thì hàng ngày xin ơn Chúa, tỏ lòng tin, cậy, mến Chúa là việc hệ trọng nhất…”
Hai người nhìn nhau gằm ghè…
Thật không ở đâu, ngày giữa nhà thờ , lại có thứ con chiên hỗn hào với cha xứ đến vậy. Hơn nữa, anh bộ đội lên giọng riễu cợt:
“Giả thử chúng tôi đều trúng tuyển qua kỳ khảo thi của cha thì điều kiện tiếp theo có phải là bỏ quân ngũ không?”
Vậy là anh con chiên mặc áo bộ đội đã không ngần ngại úp lên đầu cha xứ một cái nón cối tổ bố: ép tín đồ đào ngũ, bỏ bộ đội. Và sau cùng,”anh ta vẫn không rời mắt nhìn ông thầy tu, vành môi trên hơi nhếch lên, cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao:
“Chúng tôi vẫn tự hỏi: Sự có mặt của các cha có cho thêm chúng tôi được  cái gì không? Một câu hỏi đứng đắn đấy. Cha còn trẻ, tôi tin rằng cha có đủ thời gian trả lời…”
Đúng là khiêu khích, phá hoại”chính sách  tín ngưỡng của Đảng, Chính phủ”, vậy mà ông nhà văn lại hạ bút khen: “cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao…”.
Tuy nhiên, mải mê bôi bác, trách móc nhà  thờ, ông nhà văn quên béng một điều là bất kỳ ‘cuộc chơi”nào cũng có luật của nó. Nếu bài xích nhà thờ dữ dội vậy, thì anh bộ đội với chị cán bộ cứ ra Uỷ ban mà tổ chức đám cưới theo đời sống mới, hà cớ gì phải vào nhà thờ khẩn khoản cha cố”linh động giải quyết”và khi không được thì lập tức giở mặt buông lời riễu cợt mang đầy tính đe doạ, khi muốn nên vợ nên chồng trước mặt đức Chúa Giêsu.
Sau cha già ,cha trẻ, Nguyễn Khải cho cha thứ ba ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người”đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy. Một lần chẳng may cha đâm phải một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả”mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn  mò đến tận nhà xứ  – mà theo lời cha  -”cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi, rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa. Vị chi là một trăm mười đồng năm hào.Ấy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…”
Diễn tả vậy, giống thằng chạy mánh đâm phải bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong.
Một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong,”khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”
Đúng một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục chăm sóc phần hồn con chiên. Tuy nhiên đọc tiếp , người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài hình hài lái trâu , bên trong lại đúng là một ông cha cố”quốc doanh”được cài vào giáo hội khủng bố tinh thần  linh mục.
Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư:
“Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ?”
Rồi cha Hoè kể tội:
“Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng: “Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”. Nói thế bằng tuyên  chiến công khai với mặt trận còn gì…”
Và cha rủa cha Vịnh:
“Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…”
Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ:
Cha không làm gì  nhưng kẻ khác làm  người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo  thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …”
Rồi cha giở trò”tâm lý chiến:
“……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn  đủ mười lần. mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”
Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ý đồ bêu xấu, báng bổ  Chúa:
Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn. Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi  nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”
Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước bôi bác đạo chưa thoả , Nguyễn Khải chui cả vào mồm linh mục chửi cho bõ tức.
Cứ theo đúng lời cha Hoè thì giải tán nhà thờ, bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ”yên ấm”nhiều bề, còn không sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn nặng, cha Thư không sao lọt tai những lời phản Chúa, ông”cười nhợt nhạt”:
“Nếu tôi hiểu được  lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý?”
Đây thật là một lời kết tội nặng nề với một đấng”chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, chẳng là cái gì , cha vẫn thở ra cái”triết lý sống”vô thần sặc mùi chính trị thực dụng:
“nếu con làm theo ý  muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo.Con làm  theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”
Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền tha hồ vẫy ngược vẫy xuôi, nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng,”kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…”– chính là cái cách Đảng đưa tôn giáo theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội..
Vài ngày sau, trên đường”kiệu mình Thánh”ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè”không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa. Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…”
Đúng là một gã làng chơi chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Đã vậy ông  còn chọc tức người đồng đạo:
“Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không?”
Cha Thư kêu lên:
“Đi kiệu Mình Thánh mà mặc xống áo này?”
Rồi cha giảng giải:
“Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”
Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ:
“Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…”
Thế rồi ông cha Hoè chở cha Thư đi tham dự”tuần chầu lượt thay địa phận”. lúc xe máy chạy qua chợ, các cô bỡn cợt ,”hét lanh lảnh”:
“Anh ơi…anh cho em đi cùng với…”
Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại:
“lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…”
Cái cảnh”cha và con”chim chuột, bỡn cợt nhau giữa ban ngày ban mặt ngay giữa chợ liệu có thể có ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm? Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp  tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà  văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị:
Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống”sướng”như vậy, ai chẳng muốn đi tu.
Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần”anh bộ đội và chị cán bộ”bị cha Thư từ chối vì không thuộc kinh; lần này cha Hoè khôn hơn, gà cho hai con chiên:
“Thế nào, không thuộc được một câu nào hả? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay. Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không?”Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời  ở cùng bà…”
Vậy là xong,”thủ tục”lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước làm cha Thư thắc mắc:
“Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao?”
Khi còn lại hai cha với nhau, cha Hoè mới”truy vấn”cha Thư , dồn cha vào cái bẫy kết tội cha”lẹo tẹo”với con chiên:
“Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa. Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….”
Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như”người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng  chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt. Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.
Người đọc cảm giác hai linh mục giống y  hai cán bộ. Họ cũng moi móc, sát phạt , nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì trong”đấu tố”. Cái lối trắng trợn lột trần nhau không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng:
Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài.”Nào tôi được  biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!”
Cha Hòe chẳng những không còn”đức tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên cũng đầy tức tối:
Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Ấy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên: “ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…”
Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém:
“Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta? Ông ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…”
Cứ thế, nhà văn tưởng tượng ra những”con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa”đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh”triết luận”giữa”công giáo”và”chủ nghĩa xã hội”mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc ngay khi tác phẩm  Nguyễn Khải mới xuất bản?
Sau  vố bị cha Hoè truy vấn và mạt sát , cha Thư rút ẩn vào chính mình ,”đã hoá ra con người trầm lặng và buồn bã”. Trong số người giúp việc , cha chỉ quý mến có mỗi  mình một cậu bé giúp lễ tên Tú với một tình cảm đặc biệt:
“Cậu bé chỉ đứng nhìn ông cha trẻ bằng cặp mắt trong suốt, nghiêm nghị và miệng hơi mỉm cười là bao nhiêu bực giận đã lập tức tiêu tan , là đã muốn mỉm cười  đáp lại và thăm hỏi một câu thật dịu dàng”
Tình cảm giữa ông cha trẻ và cậu bé giúp lễ được đẩy xa tới mức như tình cảm …cha con , anh em lại phảng phất mầu”đồng tính”:
“Vả lại cậu ta còn biết cách săn sóc người chủ vừa tỉ mỉ vừa âu yếm, đem lại cái vị mặn của trần tục vào cuộc sống nhạt nhẽo thiêng liêng. Chính là cái vị muối của thế gian đã gắn bó họ lại như anh em, như cha con, và nếu họ phải  xa nhau thì nỗi đau đớn chia ly cũng sẽ rất xác thịt…”
Mê mẩn cậu phụ lễ , đức cha lên giọng:
“Người lớn hay nghi ngờ, hay cứng cỏi, còn trẻ con thì tin tưởng và phó thác. Người lớn thì kiêu ngạo, tham lam, còn trẻ nhỏ thì hiền hoà , nhường nhịn. Người lớn  gian xảo, dối trá, còn trẻ nhỏ chỉ nói có nếu là có , nói không nếu là không. Người lớn là con rắn, trẻ nhỏ là bồ câu. Chúa đã từng vẫy gọi: “Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, đừng có cản chúng. Bởi chưng nước Trời  thuộc về những kẻ giống như chúng…”
Cha có thể ca ngợi trẻ con , nhưng sao lại gây cho chúng thù ghét, ngờ vực người lớn đến thế này:
“Con ơi ! Thầy ghê sợ mọi người, trừ trẻ nhỏ. Ai ai cũng có thể hãm hại được thày , trừ những kẻ trong trắng, ngây thơ như các con. Thầy nói bằng thật vì thầy đã từng  biết. Lời nói ngọt ngào  nhưng lại đọng vị đắng cay ; mời chào và cởi mở là bẫy vô hình: gương mặt thánh thiện che đậy những mưu mô hiểm độc. Thầy đã bị khốn mấy lần rồi. Con nên tin lời thầy dặn…”
Xa hơn nữa, cha còn xúi bậy:
“…phải biết ngờ vực những cảm tưởng tốt đẹp ban đầu, phải biết tránh xa những cám dỗ có tính xác thịt. Mắt thấy đẹp tức là không đẹp, tai nghe hay tức là không hay, lưỡi nếm ngon tức là không ngon…”
Linh mục là đấng chăn dắt linh hồn cho con chiên. Con chiên gần gũi linh mục ắt phải được học hỏi, trau dồi tâm hồn trong sáng và cao thượng. Vậy mà cậu bé phụ lễ  gần gũi cha Thư, suốt ngày bị cha nhồi nhét tư tưởng thù hằn và mất lòng tin vào người, nhà thờ đã biến thành nơi đầu độc con người nguy hiểm như vậy, liệu có  đáng tồn tại? Phải chăng đó là”triết luận”về đạo Thiên chúa và”chủ nghĩa xã hội”của Nguyễn Khải?
Cậu Tú phụ lễ sống trong nhà đạo vẫn phải đi lao động công ích với thanh niên trong xóm. Ra tiếp xúc với đời, cậu lại nghe lời khích bác rủ rê:
“Giả sử chúng tôi lại có một người con trai như cậu, nói cậu bỏ lỗi nhá, thì tôi chẳng còn ước ao cái nước thiên đàng nào khác. Cậu đưa bàn tay tôi xem, bàn tay đẹp quá, vừa mỏng vừa mềm, tay này có học nghề gì cũng mau giỏi, mau khéo…”
Ra ngoài đời được tâng bốc rủ rê, trở về nhà đạo, cậu Tú lại  ngập tai những chuyện bê bối xấu xa trong các thầy dòng, các cha cố. Nào chuyện khai gian tiền chợ , nào chuyên trai gái của các cha …Cứ một đằng”đời”thì kéo, một đằng”đạo”thì đẩy như vậy, trước sau cậu Tú phụ lễ cũng phải bỏ đạo mà về với đời. Cậu phàn nàn với ca xứ:
“Thưa thầy, ngày hôm nay con được nghe nhiều chuyện đến nhơ nhớp , chưa bao giờ con được nghe người ta nói với con, nói với nhau những chuyện lạ lùng đến thế …”
Lẽ ra cha xứ là linh hồn của nhà thờ, phải bảo vệ uy tín cho đạo, phải tìm cho ra thực hư trong”những câu chuyện nhơ nhớp”mà cậu phụ lễ”buôn chuyện’ ở đâu , đằng này cha lại phụ hoạ , bôi thêm tiếng xấu , kể tội nhà thờ mà chính cha  là đại diện:
“Một cặp kết bạn đến đưa cho đấng chăn chiên tám chục đồng, đấy là tiền biếu riêng , còn phí tổn dầu nến người ta đã chi một món khác rồi. Đấng chăn chiên đưa trả lại năm đồng, chỉ cầm có bảy mươi nhăm đồng, rồi bảo: “Cha chỉ lấy một nửa , còn cha cho con một nửa. Vậy là cha đã nâng giá lễ xin phép cưới từ tám chục lên trăm rưởi…”
Vào những năm thập kỷ 60, chuyện cha bỏ túi tiền”làm lễ cưới”là”tội lỗi xấu xa”. Cha lại tố cáo tiếp :
“Có bảy cặp làm lễ vào tối thứ bảy. Sáng chúa nhật linh mục rao ở nhà thờ chỉ hoan hô có ba đôi sáu anh chị em đã có tinh thần ngoan đạo. Đấy là ba đôi có tiền xin lễ cưới, còn bốn cặp kia chỉ làm phép cưới suông thì coi như không có. Có tin được không? Không thể tin được ! Không thể tin như vậy được ! Lạy Chúa…”
Cha kêu lên vì phẫn nộ, cha không còn biết chia sẻ với ai cái nỗi ghê tởm đó ngoài cậu phụ lễ.Vậy là hai người đã ngầm  họp thành một khối tách khỏi sự dơ bẩn của nhà thờ. Ông nhà văn không dừng ở đó, ông còn đẩy cha cố và thầy phụ lễ đi xa hơn nữa về phía…cách mạng để trong cuộc đối đầu giữa”ton giáo”và”chủ nghĩa xã hội”, phần thắng phải thuộc về ‘sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, minh hoạ cho”luận thuyết”“ai thắng ai”một thời bao trùm lên đời sống tinh thần dân miền Bắc.
Thế rồi một ngày nọ, ông chánh trương trố mắt nhìn cha linh mục ăn mặc lạ đời:
“cha mặc chiếc quần xanh đã cũ, một cái áo cộc tay nhuộm nâu, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá như …một anh cán bộ”, khiến ông chánh trương phải kêu lên:
“Lạy Chúa ! cha đi đâu sớm vậy , mà lại ăn mặc như vầy?”
Hoá ra cha đi thăm…bà con đang lao động sản xuất, hơn thế nữa, cha muốn cùng lao động với bà con:
“Ông chánh giới thiệu tôi với ông phụ trách tổ làm màu nhá. Tôi muốn hàng ngày tới đó làm một buổi. Còn việc nhà Chúa chỉ cần làm một buổi là đủ…”
Ông nhà văn thật ”to gan”, ông gán ghép cho cả cha cố”giác ngộ ý thức lao động”, coi”lao động là vinh quang”, từ bỏ vị trí”đạo cao đức trọng”để đòi”ba cùng”với nông dân không khác gì cán bộ cải cách ruộng đất. Tất nhiên ông chánh trương không đời nào để cha  phá vỡ lề luật của nhà thờ như vậy. Ông nhắc nhở cha:
“Chúa đã phân mỗi  người một việc. Việc của cha trọng hơn việc chúng con, sao lại bỏ việc trọng để làm những việc khác…”
Cha chẳng những không nghe theo ông chánh trương mà còn tỏ vẻ thích thú được  thoát cái vỏ làm cha:
Tôi ra cùng làm với bà con chứ thăm thú gì ….
Ra đến đường , cha Thư lấy kính râm đeo rồi hỏi nhỏ:
“Nom tôi đã ra anh cán bộ chưa?”
Ối Giêsuma lậy Chúa tôi,  làm cha cố mà lại muốn..giống anh cán bộ, muốn học theo bác Hồ ‘đi sâu đi sát”, cùng lao động với nhân dân. Ông”cha cố”của Nguyễn Khải đúng là cha dở người, sắp bỏ áo choàng thâm để xin vào Đảng thật rồi. Quả nhiên ông chánh trương nghĩ thầm về cha:
“Ông này đã ra dở thật. Mặt mũi thì võ vàng , quầng mắt thì thâm đen, ăn nói lúc khôn lúc dại. Đến tội nghiệp!”
và cố khuyên giải cha:
“Cán bộ họ không vận áo thâm chùng, thì người mặc áo thâm chùng không nên vận quần áo của cán bộ,  ăn mặc phải cho nó phân minh…”
Tất nhiên, cha Thư không hề có ý định bỏ đạo, ông chỉ muốn làm một thứ”linh mục đời mới”một chân trong nhà thờ, một chân thò ra ngoài xã hội , thực hiện đúng phương châm Nhà nước đề ra cho các nhà tu hành sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa: “tốt đời đẹp đạo”. Bởi thế, cha Thư mới tuyên  bố:
“Tôi vẫn dâng trọn đời tôi để rao giảng Tin Mừng, nhưng không ở nhà tu, không mặc áo chức. Tôi sẽ sống như mọi người…”
Đó chính là cái hình mẫu”linh mục”“tốt đời đẹp đạo”mà Đảng và Nhà nước bấy lâu nay vẫn đưa ra làm mẫu mực trong Hội những”người công giáo yêu nước”. Hóa ra cái gọi là”triết luận về thiên chúa giáo và chủ nghĩa xã hội”mà phê bình gia Vương Trí Nhàn gán cho”Cha và con”của Nguyễn Khải chẳng có gì ghê gớm mà chỉ”minh hoạ”chủ trương”tôn giáo vận”của Đảng và Nhà nước với hình mẫu quái thai”cha cố tốt đời đẹp đạo’ mà thôi. Cái hình mẫu”quái gở”ấy nhất định vấp phải sự phản đối của con chiên. Bởi thế khi cha Thư xin một chân”lao động sản xuất”ở trại rau để”tự nuôi mình”lập tức bị ông Tài – con chiên, phản đối:
“.Lạy cha, cha mà làm thế bằng trát bùn vào mặt chúng con còn gì. Xứ đạo này đâu đã đến nỗi túng thiếu?”
Cha xứ vẫn khăng khăng đòi đi”lao động sản xuất”:
“Họ  nghĩ sao mặc họ, miễn là mình làm không sai…”
Quả thực nhà văn viết về linh mục hay về thanh niên”tích cực lao động xã hội chủ nghĩa”đây? Chẳng thế mà ông cho  linh mục hăng máu lên, mạt sát nhà thờ:
Tôi không muốn sống như các linh mục khác, sống như thế nhơ nhớp lắm , mỗi người nhơ nhớp mỗi cáchTôi còn trẻ, tôi còn đủ thời giờ để lại chút ít tiếng tốt cho xứ đạo. Bằng không làm được gì hơn thì trả lại áo chức mà về. Sống như kẻ có tội đã đau đớn, lại không được phép cứu chuộc mới thật là đau đớn hoàn toàn …”
Trải qua mấy thập kỷ, Nguyễn Khải liệu đã thấy rõ, ai là người sống nhơ nhớp? Các linh mục trong nhà thờ hay các quan chức ngoài đời? Bàn tay dàn xếp của ông nhà văn quá lộ liễu làm mất đi phần chân thực là cái cốt lõi, không thể thiếu  cho một tác phẩm văn chương.
Ban chánh trương không cho cha”tham gia lao động sản xuất”sợ mang tiếng, thì”cha đi lang thang khắp các dong xóm , vào nhiều nhà, hỏi han đủ chuyện và nếu chủ nhà giữ lại mời cơm thì cha trả lời rất nhũn nhặn:
“Tôi đã ăn rồi, tôi không ăn được nhiều, đừng có ép tôi…”.
Xưa nay, các xóm đạo được cha tới thăm là một vinh dự cả làng cả xóm, rục rịch chuẩn bị đón cha từ mấy ngày trước. Riêng cha Thư thì ngược lại ,vì cha cứ tới luôn xoành xoạch”ngồi tiếp thì mất việc mà bỏ đi làm cũng không đành, nên vừa thấy sứ giả của Chúa lò dò vào cổng là trẻ con được bảo trước đã chạy vội ra nói dối bố mẹ hay ông bà nó vắng nhà…”
Thật chưa ông linh mục nào giảm sút uy tín trong con mắt giáo dân như cha Thư cho dù đã cố gắng thực hiện phương châm”tốt đạo đẹp đời”mà Đảng và Nhà nước cho kẻ thành khẩu hiệu dán đầy ở các xóm đạo.
Đi xuống dân bị dân tránh mặt, cha Thư đành”đóng cửa ngồi lì trong phòng riêng đọc sách từ sáng đến tối , không tiếp một ai…”. Ngồi trong buồng chán, cha Thư  mang sách ra ngoài trời đọc. Hôm đó cha tìm được”một cụm tre ngay sát một cái cầu đá“, rất yên ắng và mát mẻ để ngồi đọc sách. Dân làng dường như đã quen với những hành vi khác thường của cha xứ nên khi cha vừa đi qua”họ  liền ngoái cổ nhìn theo, cái nhìn bần thần xót tiếc: “Khốn nạn ! Con người khoẻ mạnh đẹp đẽ thế mà ra dở?”.
Cha xứ đã muốn”lìa đạo”, lại thêm ngồi đọc sách ở cái”cụm tre bên cái cầu đá“lại gặp một anh…tu xuất, bỏ đạo về đời.  Anh này đã học ở”tràng lý đoán”– tức trường học ra làm cha xứ được vài năm, đã”chịu phép cắt tóc là đã được vào sổ các thầy tư giáo”, trong Hội thánh có 7 chức  thì anh ta đã”được chịu chức cầm nến“tức là chức thứ tư rồi, chỉ còn hai năm nữa là anh ta đã thành linh mục năm mới 24 tuổi. Tu sắp thành”chính quả”vậy mà ngang xương bỏ về bởi lẽ những thầy dậy anh trong hội thánh đều là bọn mà anh ta cho là”học vấn thì tầm thường, mọi quan niệm đều lạc hậu, tư cách lại hèn kém, nói cho thật họ không được  phép rao giảng những lời cao đẹp…
Dựng nên nhân vật cha Thư chửi đạo dường như chưa thoả lòng , ông nhà văn Nguyễn Khải phải đẻ thêm chàng”tu xuất”nữa để mượn mồm chửi tiếp. Anh này đưa ra lý do bỏ tu thật ‘cao quý”:
“Con chỉ không muốn bị dắt kéo bởi những người mù. Theo chân họ rồi có ngày bị sa hố…”
Ta hãy thử tưởng tượng một chàng thanh niên tuổi măng tơ, vào  trường dòng từ nhỏ, sắp sửa tốt nghiệp thành cha, vậy mà dám chê bai những người thày của mình là hèn kém, là dốt, là mù….thì anh ta nếu không phải phường vô ơn bạc nghĩa cũng là quân đầu đường xó chợ, trốn học đi bụi đời.
Sau lần cha Thư nghe thày”tu xuất”báng bổ đạo được vài ngày  thêm ông cha Hoè hăng hái bôi đen cái áo choàng thâm nữa. Ông này kể về một”chiến sĩ đầy lòng quả cảm của Hội thánh, một nhà lãnh đạo và tổ chức hết sức khôn ngoan của địa phận“, người đó là”cha Vinh”vừa mới bị ‘đuổi khỏi hàng ngũ giáo sĩ hết sức đột ngột”vì tội …hủ hoá.
Bằng một giọng vô cùng khoái trá của kẻ tiểu nhân, cha  Hoè kể lại vụ việc”ngã ngựa”của người đồng liêu. Trước  hết cha mạt sát:
“Ông Vinh được chết lành thì còn ai muốn giữ mình cho nên. Một đời mưu chước hại người, nay mới bị người hại lại. Mà dơ dáy vô cùng, dẫu người thân cũng phải che mặt mà tránh…
Chửi bới chán chê rồi cha mới đi vào tường thuật chi li bằng thứ ngôn ngữ chẳng phải  của nhà tu hành chút nào:
“Cái đứa nữ ấy cũng đã ngoài ba chục tuổi , vốn có tính huê nguyệt , người mỡ màng phốp pháp, ăn nói cũng khôn khéo, ngọt ngào… Cha đã có tuổi hay đau ốm vặt nên cái đứa kia mới có dịp bưng cơm lên dọn cơm xuống , rồi hầu nước hầu thuốc , lâu dần thành cô hầu phòng , ngày nào không thấy đến, ông già lại có ý giận, có ý ghen…”
Lẽ ra nói về ‘cái sự trượt ngã của người khác”, nhất của đức cha Tổng Giám mục , nếu là người có đôi chút tự trọng, ắt chỉ nói qua loa, vắn tắt, bóng gió, ngờ đâu, cha Hoè càng kể càng chi li, thích chí:
“Mà chuyện cũng đã dăm sáu năm nay rồi, chứ chẳng phải mới có ngày hôm qua…Mãi đến đêm hôm vừa rồi , cái chuyện mờ ám giữa hai người mới hoàn toàn bị vỡ lở. Ai đời ngủ với nhau lại không cài then cửa bao giờ. ờ thì cái chuyện ăn vụng bị bắt quả tang tiếng là xấu nhưng thế gian cũng đã thường. Cái tâm lý con người mình có thể hiểu được …
Rào đón kỹ càng rồi, cha mới hạ nhục đồng liêu xuống đất đen:
Nhưng cái ông già ấy lại quỳ sụp xuống mà xưng con xưng cháu, khóc lóc kêu van  những kẻ đối địch hãy tha thứ , hãy làm ngơ , cần gì sẽ dâng hiến bằng hết thì tôi không thể nào hiểu nổi. Cái tâm lý ấy nó kỳ quái quá, làm sao mà hiểu được …”
Cái giọng bôi bác”thày cả” độc địa không chút tình cảm thông , đập một nhát cho chết, rõ là không phải giọng của linh mục”đồng liêu”mà là của …ông nhà văn ra sức bôi bác nhà thờ lấy điểm với Đảng:
Cấy ác thì gặp ác, dẫu là tôi tớ của Chúa cũng chẳng thể bênh. Chúa chẳng có tội gì còn bị đẩy lên khổ giá huống hồ một kẻ tội lỗi chất chồng. Rồi còn nhục nhã hơn nữa kia, chưa hết đâu…
Thật khó hiểu vì sao, đức cha Hoè sau khi đã thoả thuê mạt sát đức cha Vinh tội hủ hoá, lại còn lớn tiếng chửi bới suốt lượt cả giới linh mục nhà Chúa mà chính ông ta cũng là một thành viên:
Có nhiều cha hễ mở miệng nói rặt điều nhân đức nhưng cách sống lại rất đáng phàn nàn. Chuyện ông Vinh chỉ là một chuyện vặt được  lôi ra trước công luận. Còn lắm chuyện hệ trọng hơn vẫn được nhiều đấng bậc ở toà giám giữ kín trong bóng tối, con là cái thằng hay thóc mách nên cũng biết được  ít nhiều. Vì được  biết ít nhiều nên con mới dám nói này nói nọ mà không sợ bị phạt vạ treo chén. Họ làm bậy còn được quyền  tế lễ Chúa, huống là con…”
Thực là một lời tố cáo hết sức đanh thép”sự thối nát”của Toà Giám mục , nhất từ miệng đức cha sống ngay trong nhà Chúa thử hỏi ai còn dám nghi ngờ.
Bôi đen đạo thiên chúa là cảm hứng xuyên suốt”Cha và con và…” cho tới tận chương cuối. Ông cha Vinh sau khi bị bắt quả tang ngủ với cô hầu phòng đã”cướp  quyền của Đức  Chúa Trời , tự huỷ hoại cuộc sống của mình. Khi người nhà xứ phá cửa vào đã thấy xác treo lủng lẳng…”.
Thế rồi một hôm cha quản hạt cho gọi cha Thư – ông linh mục đang”chán đạo muốn về đời”, tra vấn:
Xin cha tha lỗi cho tôi nếu tò mò muốn hỏi một câu này: cha còn điều gì chưa được  hoàn toàn hài lòng về những người  cộng sản?”
Đó là một xúc phạm với cha Thư  – vốn rất cảm tình với cách mạng, bởi vậy cha nghiêm mặt:
“Thưa cha, sao cha lại hỏi con chuyện đó?: “
Rồi cha bầy tỏ”lập trường cách mạng”:
“Con cảm phục cuộc cách mạng nói chung , có cách mạng chúng con mới được làm người tự do, làm một giáo sĩ tự do.Nhưng con chưa thể hoàn toàn bằng lòng những cán bộ cách mạng nói riêng. Đến là mâu thuẫn. Nhưng …thưa cha, con có thể sống được  lâu dài với cái mâu thuẫn ấy. Vì con biết vâng lời người cầm quyền..”
Ông nhà văn Nguyễn Khải quả rất ranh ma khi mượn lời toàn  người nhà Chúa mạt sát các đấng chăn chiên. Cuốn sách gọi là tiểu thuyết”Cha và con và…”thực ra là một bản án hết sức nặng nề đối với thiên chúa giáo tại Việt Nam mà lạ thay gần 40 năm sau khi ra đời vẫn chưa một ý kiến phản biện nào thuộc phía những người bị bôi xấu.  Cuốn sách vẫn nghiễm nhiên là một”thành tựu”trong kho tàng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhật Tuấn
Nguồn: Blog Nhật Tuấn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét