Lâng lâng hạnh
phúc
(Chúa
nhật II mùa Chay, năm A)
Hạnh phúc là niềm mơ ước suốt cuộc đời của bất kỳ ai. Mưu cầu hạnh phúc
là mơ ước chính đáng và là quyền cơ bản của con người. Hạnh phúc đa dạng, với nhiều
mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa. Tuy nhiên, hạnh phúc cũng dễ khiến người
ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình yêu, chẳng ai có thể định nghĩa
chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là tương đối.
Hạnh phúc là một trạng thái
cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Hạnh phúc
mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí, là cảm giác
thoải mái khi đạt được một giá trị, một mục đích, một kết quả... nhưng điểm
khác nhau nằm ở tính hữu hình hay vô hình của giá trị, của mục đích, của kết
quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu, thành công, nổi tiếng, giàu có,...
Hạnh phúc và sung sướng có nghĩa gần giống nhau, hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh
thần, trừu tượng; sung sướng hiểu theo nghĩa vật chất, cụ thể.
Muốn hạnh phúc thì phải đi tìm. Đi
tìm hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được nó như nhặt được một vật thể, cũng
không thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động “tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận
với những gì mình có hiện tại thì sẽ có hạnh phúc. Thế nhưng không hề dễ thực
hiện được động thái “chấp nhận” như vậy!
ĐAU KHỔ ĐI TRƯỚC
Có đau khổ mới biết thế
nào là hạnh phúc. Cũng như có bị tù đày rồi mới nhận thức được tự do và biết
quý tự do. Có gian nan vất vả mới nên người, thành nhân tài. Chính đau khổ là
“chất xúc tác” cho những tác phẩm giá trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả
càng có được những tác phẩm hay. Những người giỏi đều là những người đã từng
vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng. Giàu có và sung sướng không tạo nên vĩ
nhân, như một chí sĩ (*) đã nói: “Ví
phỏng đường đời bằng phẳng cả / Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”.
Ngày ấy, Đức Chúa phán với
ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và
nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một
dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và
ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho
ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất
sẽ được chúc phúc” (St 12:1-3).
Đang an cư lạc nghiệp,
đùng một cái phải ra đi, chúng ta có dám đi không? Ba lần dời nhà bằng một lần
cháy nhà. Chắc chắn là rất khó ra đi, vì giằng co dữ dội và cần phải can đảm mà
dứt khoát ngay. Cũng vẫn khó ra đi dù biết rõ nơi đến như thế nào – phải ra đi vì
đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ bão lũ hoặc động đất,… huống chi ra đi
mà không biết nơi đó ra sao, ngày mai thế nào. Vậy mà “ông Áp-ram ra đi, như
Đức Chúa đã phán với ông” (St 12:4a). Không chỉ vậy, khi rời Kha-ran, “ông
Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi” (St 12:4b) chứ đâu còn trẻ trung gì nữa! Quả
thật, đức tin của ông lớn quá! Vì thế ông được gọi là Áp-ra-ham, nghĩa là
“người cha vĩ đại của muôn dân tộc” (Hc 44:19).
Theo sự hướng dẫn của
Thiên Chúa, “ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài
sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về
phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó” (St 12:5). Tổ phụ Áp-ram ra đi vì ông tín
thác vào Thiên Chúa quan phòng, đồng thời ông còn vâng lời tuyệt đối. Kinh
thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của
lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Vì vâng lời vô điều kiện, ông an tâm và vui
vẻ, tức là ông hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa
thì luôn miên man và lâng lâng khó tả, chắc chắn là thế!
Một khi Thiên Chúa hứa gì
thì luôn chắc chắn, luôn giữ đúng lời, vì đó là luật, Ngài làm luật nên Ngài
tôn trọng luật, như Chúa Giêsu nói: “Trời
đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất” (Lc 16:17). Tác
giả Thánh Vịnh xác nhận: “Vì lời Chúa
phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều
công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).
Thiên Chúa là tình yêu, là
Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã tạo nên: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi
sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che
chở phù trì” (Tv 33:18-20). Với niềm thành tín, tác giả Thánh Vịnh bộc
bạch: “Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ,
vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh” (Tv 33:21).
Dù biết Thiên Chúa tận
tình như vậy, chúng ta vẫn không được ỷ lại, mà phải liên lỉ cầu nguyện: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy
Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Tương tự câu “xin
Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nghĩa là chúng
ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót như vậy, chúng ta tha thứ
cho người khác thế nào thì được nhận ơn tha thứ như thế. Đó là công bình, là công
lý, và cũng là chân lý. Không thể CHO ít mà đòi NHẬN nhiều. Thiên Chúa không bao
giờ “bù lỗ” kiểu đó!
Tuy nói với Ti-mô-thê,
nhưng cũng là nói với mỗi chúng ta, Thánh Phaolô căn dặn: “Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ
thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao
cộng khổ với tôi
để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:8). Mọi người đều phải nỗ
lực!
Tại sao phải nỗ lực làm
chứng như vậy? Lý do tất yếu: “Người đã
cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc
nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó,
Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới
được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức
Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường
sinh bất tử” (2 Tm 1:10).
Thực hiện như vậy thì
chúng ta sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc trong Đức Kitô, được trường sinh và
vĩnh cư trong Vương Quốc Hằng Sống. Đó là niềm hạnh phúc vĩnh viễn.
HẠNH PHÚC THEO SAU
Ai khổ luyện thì sẽ thành
tài. Vất vả trồng cây thì sẽ có ngày hưởng trái ngọt. Đó là quy luật chung muôn
thuở, như người Việt cũng nói: “Có công
mài sắt, có ngày nên kim”. Là điều tất nhiên và hoàn toàn hợp lý!
Sau khi tiên báo cuộc
thương khó của Ngài được sáu ngày, Đức Giêsu đem theo các đệ tử là Phêrô,
Giacôbê và Gioan (em ông Giacôbê). Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới
một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các
ông chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm
đạo với Người.
Quá hưng phấn, ông Phêrô
thưa ngay với Sư Phụ mà không cần so đo tính toán hi cả: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng
tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt
17:4). Không hề nhắc tới lều cho ba anh em, nghĩa là sao cũng được, ở
“khách sạn ngàn sao” cũng được, miễn sao tận hưởng niềm hạnh phúc lâng lâng như
thế. Các ông được sống trong niềm hạnh phúc khôn tả đó là được nếm thử hạnh
phúc Nước Trời, nhờ đó mà ráng chịu cực ở trần gian này.
Hết ngạc nhiên này tới
ngạc nhiên khác. Một lần nữa, các ông lại mắt chữ O và miệng chữ A. Ngạc nhiên
mà thú vị. Sướng rơn! Ông Phêrô còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ
các ông, và có tiếng từ đám mây phán: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
(Mt 17:5). Trước đó, sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa
Giêsu tại sông Giođan, Chúa Cha cũng xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người” (Mt 3:17).
Lần này thì khác hẳn, vừa
nghe vậy thì các ông kinh hoàng và ngã sấp mặt xuống đất. Chu choa, hết hồn
luôn! Nhưng may mà không xây xát chút nào, dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm. Thấy
thế, Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7). Các ông ngước mắt lên, không
thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu mình ên. Kỳ lạ thật đấy, chả hiểu gì ráo trọi!
Trên đường thầy trò từ
trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy” (Mt 17:9). Các ông im lặng nhưng chắc là gãi đầu miết, vì chả
hiểu át giáp gì, nhưng các ông cũng không dám hỏi Thầy, dù chỉ nửa lời. Lạ
thật, nhưng cũng “đã” thật:
Ôi, niềm hạnh phúc
lâng lâng
Lên Ta-bo thấy vinh
quang tuyệt vời
Rõ ràng mắt thấy hẳn
hoi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét