Khoảng cách
Trên đời có nhiều loại khoảng cách: Khoảng cách địa
lý, khoảng cách không gian, khoảng cách thời gian, khoảng cách xã hội, khoảng
cách tình cảm, khoảng cách giai cấp, khoảng cách trình độ, khoảng cách thực tế,
khoảng cách trừu tượng, khoảng cách địa vị, khoảng cách tình cảm, khoảng cách
tôn giáo, khoảng cách tâm linh,… Nói chung, có rất nhiều loại khoảng cách, với
mức độ cũng rất khác nhau.
Có khoảng cách rất… “tự nhiên” là
một đứa bé nằm trên đống tiền và một đứa bé nằm trên đất cát. Đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền
là đứa bé con nhà giàu, ngậm vú giả, quần áo tươm tất, nhưng mắt mở to, không
ngủ được. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát đen đủi, bẩn thỉu, quần áo rách bươm, nhơ
nhớp, nhưng nằm ngủ ngon giấc. Hai hình ảnh trái ngược khiến chúng ta phải suy
tư nhiều. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát thanh thản vì biết quẳng gánh lo đi, còn
đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền không thể ngủ được vì chờ đợi hoặc đòi hỏi cái gì đó
ở người khác. Một triết-lý-sống thú vị mà nhức buốt lắm!
Có lần Chúa Giêsu bảo: “Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt
6:34). Khổ đâu mà lắm thế nhỉ? Nghe đến “cái khổ” thì chắc là ai cũng buồn
lắm, ngao ngán lắm! Chẳng phải Chúa “triệt buộc” hoặc “chơi ép” chúng ta đâu, mà
chắc chắn “cái khổ” phải có giá trị lắm!
Trong Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu đưa
ra hai mối phúc liên quan “cái khổ”. Mối thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3), và mối thứ hai: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Hoàn cảnh
NGHÈO nàn thì phải KHÓ khăn, thế nên luôn cảm thấy KHỔ và SẦU. Toàn là những
chữ “hắc ám” hết sức!
Không ai muốn nghèo, nhưng có người
đã cố gắng hết sức mà vẫn nghèo, lận đận cho tới chết. Người nghèo bao giờ cũng
nhiều hơn người giàu: “Người nghèo thì
bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Vì thế, Chúa Giêsu luôn chạnh
lòng thương người nghèo và bảo chúng ta phải yêu thương người nghèo. Thế nhưng
trong thực tế, người nghèo vẫn bị đối xử phân biệt, bị coi thường, không chỉ
đối với xã hội đời thường mà với tôn giáo cũng chẳng hơn gì!
Ngay tại Hong Kong hoa lệ và sang trọng vẫn có những
người nghèo rất khổ. Họ phải “sống chui” trong các “chuồng” (chứ cũng chẳng
được giống như căn phòng nhỏ). Mỗi “chuồng” có chiều dài khoảng 180-200 cm,
chiều rộng từ 70-90 cm. Các “chuồng” chồng lên nhau và nằm sát nhau (hình bên).
Tương tự, ở Việt Nam cũng có rất nhiều khu ổ chuột, thậm chí ngay tại Saigon mà
vẫn có người sống trên chiếc ghe nhỏ, nhìn mà cũng cảm thấy muốn ngộp thở!
Có hai dạng thực-tế-thật, theo cả
nghĩa đen và nghĩa bóng. Thực tế thứ nhất: Xe
hơi “dễ chơi” hơn xe máy, xe máy “đáng ngại” hơn xe đạp, xe đạp “dễ hạp” hơn đi
bộ, đi bộ nhìn “ngộ” lắm. Thực tế thứ nhì: Biệt thự “bự” hơn nhà lầu, nhà lầu “ngầu” hơn nhà xây, nhà xây “hay”
hơn nhà lá, nhà lá nhìn “lạ” lắm. Người ta vẫn hô hào “xóa đói, giảm
nghèo”, nhưng chẳng thấy “xóa” hoặc “giảm” được gì. Ngay cả trong tôn giáo cũng
vẫn có tình trạng “chạy đua”, xây nhà thờ hàng chục tỷ, như nhà thờ Bác Trạch (*)
được coi là nhà thờ “đồ sộ” nhất Việt Nam hiện nay (!). Ở đây không có ý dám “phê
phán” nhưng thiết tưởng cũng nên “cân nhắc” lắm!
Gọi là san bằng “khoảng cách” nhưng
đôi khi chúng ta bị ngộ nhận hoặc ảo tưởng, và rồi có thể chúng ta lại “vô
tình” làm cho khoảng cách càng thêm xa và rộng hơn. Thức tế vẫn thấy có những
“con chiên ghẻ” bị “lạc bầy”. Những con lợn béo luôn bán được giá cao. Và
“chiên béo” cũng “được giá” hơn hẳn loại “chiên ghẻ” hoặc “chiên gầy mòn ốm o”.
Thánh Gioan nói: “Chúng ta đừng yêu
thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng
phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Thánh
Gicôbê cũng xác định: “Đức tin không có
hành động là đức tin chết” (Gc 2:17
& 26). Giảng cho hay, viết cho tốt, nghe cho biết, đọc cho vui. Thế
thôi! Người nghèo ở rất gần nhưng Thiên Chúa xa lắc xa lơ, “khoảng cách” vẫn
còn đó!
Trình thuật Lc 16:19-31 cho thấy có
một loại khoảng cách đặc biệt: KHOẢNG CÁCH ĐỜI ĐỜI. Khoảng cách này phát xuất
từ một dụ ngôn do chính Chúa Giêsu kể, Tổ phụ Áp-ra-ham gọi là Vực Thẳm. Gọi là
dụ ngôn nhưng vẫn rất thực tế ở đời thường, xưa cũng như nay. Chuyện kể và nghe
“rất quen” rằng…
Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn
lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh
đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông
ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm
mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn.
Dưới âm phủ, đang khi chịu cực
hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh
La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng
đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt
khổ lắm!”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Con
ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô
suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây,
còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một
vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó
có qua bên chúng ta đây cũng không được”.
Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh
La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến
cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”. Ông Áp-ra-ham đáp:
“Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì
chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ
cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu
nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.
Chúng ta thấy trong dụ ngôn này có
một “khoảng cách”. Đó là khoảng cách sang – hèn, khoảng cách giàu – nghèo. Vừa
trừu tượng vừa cụ thể. Khoảng cách này chỉ có thể san bằng hoặc lấp đầy bằng “chất”
yêu thương (đức ái, đức mến, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự chạnh lòng, thậm
chí là… thương hại).
Khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo La-da-rô không còn là khoảng-cách-tạm-thời hoặc bình thường như
trước, mà nay là khoảng-cách-đời-đời, hóa thành “vực thẳm” rồi. Không thể thay
đổi được gì nữa. Thật là đáng sợ!
Về đức ái, không phải cứ CHO là bác
ái. Đừng lầm lẫn hoặc cố ý không hiểu. Người đời nói: “Của cho không bằng cách cho”. Đúng vậy, “cách cho” thực sự quan
trọng hơn “của cho”. Có những “kiểu cho” khác nhau thì cũng có những cấp độ bác
ái – tạm chia ba cấp: Cấp thấp, cấp vừa, và cấp cao.
1.
Yêu thương “cấp thấp” là BỐ THÍ. Đó là chuyện “Người Bạn Quấy Rầy” (Lc
11:5-8). Chủ nhà không hề cảm động trước hoàn cảnh của người hàng xóm kia,
nhưng vì anh ta cứ quấy rầy mãi mà chủ nhà đành phải đưa thực phẩm cho anh ta
để anh ta đi rồi. Hành động của chủ nhà hoàn toàn vì mình, mang tính ích kỷ. Rõ
ràng chủ nhà vị kỷ chứ không vị tha.
2.
Yêu thương “cấp vừa” là CÔNG BÌNH (công bằng). Kinh thánh không có câu
chuyện nào liên quan “cấp độ” này. Đây là dạng “chia sẻ”. Tôi có nhưng tôi chưa
hoặc không dùng tới thì tôi chia sẻ cho bạn. Không vị kỷ cũng chẳng vị tha. Vô
thưởng, vô phạt, giống như thuốc không bổ mà cũng không hại.
3.
Yêu thương “cấp cao” là BÁC ÁI. Đó là chuyện “Bà Góa Và Hai Đồng Tiền” (Lc
21:1-4; Mc 12:41-44). Những người bỏ tiền vô thùng đều là tiền dư (bạc nén, bạc
lượng, bạc trăm, bạc triệu, bạc tỷ,…), nghĩa là không “chạm” đến cuộc sống của
họ. Có bà góa già chỉ bỏ 2 đồng tiền thôi, thế mà Chúa Giêsu khen nức. Tại sao?
Hai đồng tiền đó quá nhỏ bé, chưa bằng số lẻ của nhà giàu cho bọn trẻ ăn quà
vặt, nhưng 2 đồng đó có “ảnh hưởng” miếng cơm hằng ngày của bà. Bà hy sinh để
làm từ thiện, giúp người nghèo. Như vậy, 2 đồng tiền đó có “dính máu” của bà. Hoàn
toàn vì thương cảm người khác. Vị tha chứ không vị kỷ. Do đó, 2 đồng tiền nhỏ
lại hóa thành tài sản lớn. Còn khuya chúng ta mới làm được như bà góa này,
nghĩa là chúng ta đừng vội nhận là mình làm việc bác ái!
Thú thật, cho đến nay tôi vẫn chưa
làm được việc bác ái nào đúng nghĩa, vì tôi chưa dám “cắt máu thịt” mình hoặc
“rút ruột” ra vì người khác. Tôi cũng chưa đủ mức công bình, vì tôi không có
của dư để cho người khác. Tôi cũng chưa có dịp bố thí, vì chẳng ai quấy rầy
tôi, họ cứ thấy tôi là họ “chạy mất dép” rồi. Tóm lại, cứ nói “toạc móng heo”
là tôi KHÔNG HỀ BÁC ÁI. Vâng, đó là phần tồi tệ của tôi. Và tôi chỉ còn biết xin
lỗi Chúa!
Khi làm từ thiện, giúp người nghèo,
làm việc tông đồ,... người ta vẫn nói là “làm việc bác ái”. Nghe “kêu” dữ
nghen! Thật ra, người ta chỉ gom quần áo cũ, đồ dư, đồ mình không ăn được,… rồi
đem cho người khác chứ có mấy ai mua đồ mới mà cho hoặc mời ăn đồ ngon? Và vẫn
“vô tư” nói là “làm việc bác ái”. Dĩ nhiên người nghèo họ không dám đòi hỏi, có
đồ là tốt lắm rồi. Thế nhưng có lẽ người cho cũng nên “vắt tay lên trán” một
chút đấy!
Chữ “nghèo” liên quan chữ “hèn” và
chữ “khổ”, “hèn” mà bị “nhục”, “khổ” mà bị “đau”. Việt ngữ vô cùng độc đáo. Quả
thật, người nghèo khổ lắm. Khổ đủ thứ. Khổ về thể lý mà “bị dí” luôn tinh thần.
Thậm chí họ khổ cả về phương diện tôn giáo. Họ cũng thương ông bà, cha mẹ,… lắm
chứ, nhưng họ không có tiền mà xin lễ. Nhiều người còn ra “giá lễ” phải là “thế
này, thế nọ” thì làm sao họ xin nổi chứ? Họ cũng muốn mua ân nhân nhưng họ có
đủ sức đâu mà mua? Chiên ghẻ à chiên ghẻ thì chẳng ai muốn lại gần, “hôi hám”
thí mồ!
Họ nghèo vật chất, nhưng có thể họ giàu tâm linh. Chắc
họ cũng được an ủi khi nghe Chúa Giêsu nói: “Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa!
lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời,
mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Hằng ngày, người ta có nhiều cuộc “chạy
đua” lắm, thậm chí còn so đo ngay trong những việc đạo đức. Trên trời không có
chỗ cao hoặc chỗ thấp, cũng không có thánh nhỏ hoặc thánh lớn. Người ta còn
“khoái” coi cái chính là cái phụ, còn cái phụ là cái chính. Thật là ngược đời
quá! Chẳng hạn, người ta thích “chuyền tay” nhau kinh này và sách nọ, sứ điệp
nọ sự lạ kia,… Cũng tốt thôi. Nhưng nếu chỉ “chăm chú” cái hình thức đó, tạo
“bề nổi” mà bỏ “chiều sâu” thì có ích gì? Kinh thánh có đầy đủ, nhất là Phúc
Âm, vậy sao không tìm hiểu cho sâu, cho kỹ?
Thánh Inhaxiô Loyola so sánh: “Không
có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả
trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy”. Còn Thánh Phaolô căn dặn: “Lòng
bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết
với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn
mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm
12:9-11). Thánh Phaolô nói chắc nịch: “Anh
em phải có lòng thương xót và
biết tha thứ cho nhau” (Ep 4:32).
Mùa Chay là dịp “xét mình” một cách
rất nghiêm túc, để có thể thực sự “xé lòng”, quyết tâm “xé tâm hồn” để xứng
đáng “gặp” Đức Giêsu Kitô qua Bí tích Thánh Thể và qua tha nhân, đồng thời hãy
cùng nhau tâm niệm hai điều:
+ Ad Majorem Dei Gloriam – Để vinh danh Chúa hơn.
+ Vivere Summe Deo in Christo Jesu – Sống tuyệt vời cho Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta cũng hãy cùng nhau cầu xin
như Thánh Augustinô: “Domine, noverim Te,
noverim me” (Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con). Và hãy
mơ ước như Thánh Phanxicô Assisi: “Con
chỉ mong yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con”. Nhờ đó,
chúng ta có thể trưởng thành về đức ái để có thể san bằng mọi “khoảng cách”
trong cả cuộc sống đời thường và tâm linh.
TRẦM THIÊN THU
Một chiều Thứ Sáu Mùa Chay, giờ thứ Chín – 2014.
__________________________
(*) Nhà thờ Bác Trạch (xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình)
thuộc GP Thái Bình, được khánh thành ngày 13-10-2013. Tổng kinh phí xây dựng là
58,6 tỷ VNĐ. Tổng số vật liệu xây dựng: 46 vạn gạch, 351 tấn sắt, 527 tấn vôi,
2.859 tấn xi măng, 15 m3 gỗ lim, 1000 m2 đá
các loại, khoảng 1000 m2 sơn trong ngoài, 122 tấm kính tranh;
gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại (http://giaophanthaibinh.org/a4397/Hinh-anh-ve-tan-Thanh-duong-Giao-xu-Bac-Trach.aspx).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét