LTCGVN (14.02.2014)
NGÀY TÌNH YÊU
Valentine's Day (Ngày Tình Yêu) hay Saint
Valentine's Day (Lễ Thánh Valentine) là ngày nghỉ được nhiều người trên thế
giới kỷ niệm vào ngày 14/2. Tại các nước nói tiếng Anh, đây là ngày truyền
thống để những người yêu nhau bày tỏ tình yêu bằng cách gởi thiệp Valentine,
tặng hoa hoặc tặng bánh kẹo cho nhau. Ngày lễ đặt theo tên của 2 vị trong số
nhiều vị tử đạo của Thiên Chúa giáo thời sơ khai tên là Valentine. Các vị thánh
được tưởng nhớ ngày 14 tháng Hai là Valentine thành Rôma (Valentinus presb.
m. Romae) và Valentine thành Terni (Valentinus ep. Interamnensis m.
Romae). Thánh Valentine thành Rôma là linh mục, tử đạo khoảng năm 269 và
được an táng tại Via Flaminia. Hài cốt của ngài để ở nhà thờ thánh Praxed tại
Rôma và ở nhà thờ Carmelite trên đường Whitefriar tại Dublin, Ai-len. Thánh
Valentine thành Terni là giám mục giáo phận Interamna (nay là Terni) khoảng năm
197, tử đạo trong thời bách đạo của hoàng đế Aurelian, cũng được an táng ở Via
Flaminia nhưng khác địa điểm với thánh Valentine thành Rôma. Hài cốt của thánh
Valentine thành Terni để ở nhà thờ chính tòa thánh Valentine tại Terni (Basilica di San Valentino).
Sách Catholic Encyclopedia (Bách khoa
Công giáo) cũng nói về vị thánh thứ ba tên Valentine được tôn kính ngày 14
tháng Hai. Ngài chịu tử đạo ở Phi châu với các bạn khác, nhưng người ta không
biết gì hơn về ngài. Không có yếu tố lãng mạn nào thể hiện trong tiểu sử các vị
tử đạo này thời Trung cổ sơ khai. Khi thánh Valentine được liên quan sự lãng
mạn hồi thế kỷ 14, sự khác biệt giữa thánh Valentine thành Rôma và thánh
Valentine thành Terni hầu như không còn.
Ngày này được kết hợp với tình yêu lãng mạn theo chu
kỳ Geoffrey Chaucer thời Trung cổ, khi mà truyền thống yêu thương phong nhã
phát triển mạnh, và được kết hợp chặt chẽ với việc trao nhau những lời chúc yêu
thương theo kiểu Valentine.
Các biểu tượng Valentine hiện đại gồm nét vẽ hình
trái tim, chim bồ câu và hình Thần ái tình có cánh. Từ thế kỷ 19, các lời chúc
viết tay phổ biến rộng rãi dẫn đến việc sản xuất hàng loạt các thiệp chúc. Việc
gởi thiệp Valentine rất phổ biến ở Anh vào thời đó. Năm 1847, Esther Howland
kinh doanh phát đạt ở Worcester, Massachusetts, về sản xuất thiệp Valentine làm
thủ công theo kiểu Anh. Thiệp Valentine cũng phổ biến ở Mỹ hồi thế kỷ 19, việc
tặng thiệp ngày nay vẫn phổ biến hơn là trực tiếp tỏ tình, tiên báo ngành
thương nghiệp hóa các ngày lễ ở Mỹ. Ngày Tình Yêu được coi là một trong các
ngày lễ tiêu chuẩn. Hiệp hội Thiệp Hoa kỳ ước tính mỗi năm có khoảng 1 tỷ thiệp
Valentine được gởi, chỉ sau lễ Noel với khoảng 2,6 tỷ thiệp được gởi.
Lịch Công giáo Rôma năm 1969, lễ thánh Valentine vào
ngày 14 tháng Hai được chuyển từ Công lịch Rôma sang lịch riêng (địa phương
hoặc quốc gia) với lý do: “Dù lễ thánh
Valentine đã xưa, được chuyển sang lịch địa phương, ngoài danh xưng của ngài,
không ai biết gì hơn ngoài việc an táng ngài tại Via Flaminia vào ngày 14 tháng
Hai”. Lễ này vẫn được cử hành ở Balzan (Malta), nơi tìm thấy hài cốt ngài,
và cũng được các tín đồ Công giáo Truyền thống (Traditionalist Catholics, những
người theo lịch cũ từ trước Công đồng Vatican II) cử hành.
Người ta cho rằng thánh Valentine chịu tử đạo do
chính hoàng đế Claudius II hành quyết. Ông bị Valentine ám ảnh và đã tranh luận
với ngài, muốn ngài bỏ đạo để bảo toàn mạng sống. Ngài cương quyết từ chối và
còn thuyết phục Claudius gia nhập đạo, vì vậy mà ngài bị xử tử. Trước khi bị
hành quyết, hoàng đế bắt ngài phải làm phép lạ chữa khỏi mù cho con gái viên
cai ngục.
Truyền thuyết khác cho rằng hoàng đế thấy thanh niên
độc thân thì làm binh sĩ tốt hơn nên ông cấm thanh niên lấy vợ sớm. Tuy nhiên,
linh mục Valentine thấy vô lý và vẫn bí mật cử hành lễ hôn phối cho các thanh
niên. Claudius biết chuyện liền ra lệnh bắt và tống giam Valentine. Trước giờ
hành quyết, Valentine viết tấm thiệp Valentine đầu tiên gởi cho con gái viên
cai ngục bày tỏ sự quý mến thân hữu, ký tên Valentine, và ngài bị xử trảm.
Theo lịch Athen cổ, thời gian giữa tháng Giêng và
tháng Hai là tháng Gamelion, thời gian dành cho hôn nhân thánh của Thần Zeus và
Thần Hera. Theo lịch La mã cổ, lễ Lupercalia được cử hành từ 13–15 tháng Hai,
nghi lễ cổ này liên quan sự sinh sản. Đây là lễ hội địa phương của thành Rôma.
Lễ hội phổ biến hơn là lễ hội Juno Februa, nghĩa là “Thần thanh tẩy Juno” hoặc
“Thần Trinh Khiết Juno”, được cử hành vào 13 và 14 tháng Hai. Giáo hoàng
Gelasius I (492–496) đã thành lập lễ này năm 946 để tưởng nhớ “những người mà
tên họ được tôn kính trong nam giới, nhưng hành động của họ chỉ có Chúa biết,
trong đó có Valentine”.
Nhiều người cho rằng có thể giáo hội Công giáo muốn
Công giáo hóa lễ hội Lupercalia của dân ngoại. Theo William M. Green, giáo hội
Công giáo không thể loại bỏ tận gốc lễ hội Lupercalia nên đã dành riêng một
ngày kính Đức Mẹ Maria.
Năm 1717, một nhà xuất bản ở Anh
xuất bản cuốn The Young Man’s Valentine Writer (Văn sĩ Valentine của Thanh
niên), gồm những câu thơ đầy cảm xúc dành cho những người trẻ đang yêu không
thể tự sáng tác. Họ còn sản xuất một số thiệp có ghi những câu thơ và hình vẽ,
từ đó người ta có thói quen dùng thiệp trao đổi nặc danh. Đó là lý do đột nhiên
xuất hiện những câu thơ sinh động thời nữ hoàng Victoria.
Thiệp Valentine bằng giấy phổ biến ở Anh vào đầu
thập niên 1800. Những tấm thiệp đẹp có dây đăng ten và nơ, giữa thập niên 1800
xuất hiện thêm dây đăng ten bằng giấy.
Từ giữa thế kỷ 20, việc tặng thiệp được mở rộng
thành việc tặng quà ở Mỹ, thường là nam tặng cho nữ. Các món quà như vậy chủ
yếu là hoa hồng và sôcôla gói trong giấy bóng đỏ theo hình trái tim. Vào thập
niên 1980, công nghệ kim cương phát triển khiến cho Ngày Tình Yêu là dịp để
tặng đồ trang sức. Theo kiểu trào phúng, Ngày Tình Yêu còn là Ngày Nhận thức
Độc thân (Singles Awareness Day). Tại một số trường tiểu học Bắc Mỹ, học sinh
trang trí lớp học, tặng thiệp cho nhau và cùng ăn kẹo. Tthiệp của các học sinh
thường ngụ ý đánh giá cao về nhau.
Sự phát triển của Internet càng nâng cao và tạo các
truyền thống mới, đó là thói quen tặng e-card (thiệp điện tử) cho nhau. Dù sao
thì truyền thống và thói quen này vẫn tốt, rất nên duy trì.
Cứ mỗi lần tháng Hai về, khắp nơi đều thấy xuất hiện
nhiều sôcôla, kẹo, hoa và những người yêu nhau tặng quà cho nhau nhân danh Thần
Tình Yêu – Thánh Valentine. Ai là vị thánh đó và tại sao người ta kỷ niệm ngày
này?
Nguồn gốc Ngày Tình Yêu còn là bí ẩn. Nhưng chúng ta
biết rằng tháng Hai được coi là tháng lãng mạn. Ngày lễ thánh Valentine, như
chúng ta biết ngày nay, có dấu tích của truyền thống Thiên Chúa giáo và La mã
xưa. Vì vậy, ai là thánh Valentine và ngài được kết hợp với nghi lễ cổ này thế
nào? Ngày nay, giáo hội Công giáo thấy có ít nhất 3 vị thánh khác tên Valentine
hoặc Valentinus, các vị này đều tử đạo.
Một truyền thuyết cho rằng thánh Valentine là một
linh mục hồi thế kỷ thứ ba ở Rôma. Khi hoàng đế Claudius II nhận định rằng các
đàn ông độc thân là binh sĩ tốt hơn các đàn ông có vợ con, ông đã cấm nam giới
kết hôn khi còn trẻ. Nhận thấy sự bất công của sắc lệnh, Valentine bất chấp và
vẫn bí mật cử hành nghi lễ hôn phối cho những người trẻ. Việc làm của Valentine
bại lộ, Claudius ra lệnh tử hình Valentine.
Các chuyện khác nói rằng Valentine có thể bị giết vì
cố gắng giúp các tín đồ Thiên Chúa giáo trốn khỏi lao tù của đế quốc Rôma để
khỏi bị hành hạ. Khoảng năm 498, giáo hoàng Gelasius đã công bố ngày 14 tháng
Hai là lễ thánh Valentine.
Theo một truyền thuyết khác, Valentine đã gởi thiệp
Valentine đầu tiên. Khi ở trong nhà tù, người ta cho rằng Valentine đã yêu một
cô gái trẻ – có thể là con gái của cai tù, và cô đã đến thăm Valentine khi ông
bị tù. Trước khi chết, người ta cho rằng ông đã viết một lá thư và ký tên
Valentine, ngày nay cách bày tỏ này vẫn được dùng. Dù sự thật về Valentine vẫn
mơ hồ, nhưng các câu chuyện chắc chắn nhấn mạnh vẻ quyến rũ của ông như một
nhân vật anh hùng, cảm thông và lãng mạn. Không lạ gì ở thời Trung cổ,
Valentine là một trong các vị thánh nổi tiếng ở Anh và Pháp.
Trong khi một số người tin rằng Ngày Tình Yêu được
cử hành vào trung tuần tháng Hai, cụ thể là ngày 14, là để tưởng nhớ ngày qua
đời hoặc ngày an táng Valentine – có thể vào khoảng năm 270. Một số người lại
cho rằng có thể giáo hội Công giáo cử hành lễ thánh Valentine vào giữa tháng
Hai để “Kitô hóa” (christianize) các dịp kỷ niệm của lễ hội Lupercalia của
người không theo đạo. Thời La mã cổ, tháng Hai là khởi đầu mùa xuân và được coi
là thời gian thanh tẩy (tẩy trần, tẩy uế). Nhà cửa được lau chùi sạch sẽ, rồi
rắc muối và rắc loại lúa mì spenta (bột rất mịn) khắp trong nhà.
Lupercalia là lễ hội sinh sản, cử hành ngày 15 tháng
Ba, tưởng nhớ thần Faunus (thần chăn nuôi của người Rôma), cũng tưởng nhớ những
người sáng lập Rôma là Romulus và Remus. Bắt đầu lễ hội, các thành viên của
Luperci – một phẩm trật trong các tư tế Rôma – họp nhau tại hang thánh (sacred
cave), nơi mà hai trẻ Romulus và Remus được Sói Mẹ nuôi dưỡng. Các tư tế hiến
tế một con dê – chứng tỏ sự sinh sản, và một con chó – chứng tỏ sự thanh tẩy.
Sau đó, các đàn ông cắt da dê thành từng mảnh, nhúng
da vào máu hiến tế và đem ra đường, đập nhẹ dây da dê vào các phụ nữ và phần vụ
thu hoạch. Không sợ hãi, các phụ nữ Rôma vui mừng được chạm vào bằng da dê vì
họ tin rằng các dây da dê sẽ làm họ có thể sinh con vào năm sau. Cuối ngày,
cũng theo truyền thuyết, các phụ nữ trẻ trong thành phố sẽ đặt giấy ghi tên
mình vào một chiếc bình nhỏ. Các đàn ông độc thân sẽ rút thăm một tên trong
chiếc bình đó và sẽ kết đôi với phụ nữ đã chọn được, thường thì kết thúc bằng
một đám cưới.
Cách “rút thăm” để cặp đôi lãng mạn của người La mã
tưởng chừng không mang tính Thiên Chúa giáo và không theo luật pháp. Sau đó,
thời Trung cổ, người Anh và Pháp tin rằng ngày 14 tháng Hai là bắt đầu mùa chim
giao phối, điều này thêm vào ý tưởng cho rằng giữa tháng Hai (Ngày Tình Yêu)
nên là ngày dành cho sự lãng mạn.
Bài thơ cổ nhất có tên là Valentine vẫn còn ngày
nay, bài thơ này của Charles – công tước Orleans – làm tặng vợ khi ông bị tù ở
Tower of London sau khi bị bắt trong trận Agincourt. Lời chúc, được viết năm
1415, là một phần trong số di cảo được lưu trữ tại Thư viện Anh quốc ở London.
Vài năm sau, người ta cho rằng Vua Henry V đã thuê một người tên là John
Lydgate biên soạn lời chú thích gởi cho Catherine of Valois.
Tại Anh, Ngày Tình Yêu bắt đầu phổ biến rộng rãi
khoảng thế kỷ VII. Khoảng giữa thế kỷ VIII, ngày này phổ biến đối với bạn bè và
những người yêu nhau trong mọi tầng lớp xã hội, họ trao tặng nhau các kỷ vật
yêu mến hoặc thư từ cho nhau. Cuối thế kỷ VIII, người ta in những tấm thiệp
thay cho thư từ nhờ kỹ thuật in ấn tiến bộ. Thiệp chúc là cách để người ta dễ
bày tỏ tình cảm hơn là nói trực tiếp. Thập niên 1700, người Mỹ tặng nhau những
tấm thiệp tự làm. Thập niên 1840, Esther A. Howland bắt đầu bán những tấm thiệp
đầu tiên ở Mỹ. Howland được coi là mẹ của Valentine.
Theo Hiệp hội Thiệp, ước tính mỗi năm có khoảng 1 tỷ
thiệp được gởi vào dịp Ngày Tình Yêu, chỉ đứng thứ nhì so với việc gởi thiệp
Noel – khoảng 2,6 tỷ tấm thiệp được gởi trong dịp Noel. Xấp xỉ 85% thiệp
Valentine do phụ nữ mua. Ngày Tình Yêu cũng được kỷ niệm ở Canada, Mexico, Anh,
Pháp và Úc. Ngày nay, hầu như nước nào trên thế giới cũng kỷ niệm Ngày Tình
Yêu.
TRẦM THIÊN
THU (Chuyển ngữ từ History.com)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét