LTCGVN (04.12.2013)
Cuối năm mà nói chuyện Mưa thì
thật là quá lỗi thời. Nhưng có thể chính cái “lỗi thời” đó lại có thể khiến
chúng ta biết ơn Mưa, vì hết Mưa nên trời oi ả và nóng bức quá!
Thật vậy, nếu
không có Mưa thì chúng ta chết hết. Tại sao? Vì Mưa đổ xuống cho chúng ta, dù
mưa nhỏ hay Mưa to, thậm chí chỉ là Mưa bụi hoặc Mưa phùn. Chính Mưa tăng làm
độ ẩm cho đất, và thời tiết cũng khả dĩ trở nên mát mẻ hơn. Nói chung, Mưa rất
cần cho mọi sinh vật, cần cho đất đai, cần cho môi trường. Nhưng có khi Mưa…
phát ghét. Mưa cũng khổ, cũng có kẻ ghét và người thương!
MƯA là một trong
những ca khúc nổi tiếng của Ns Văn Phụng (*). Với âm thể Dm (Rê thứ), giai điệu
giản dị nhưng mượt mà, đều đặn như những giọt mưa rơi và nhẹ nhàng như tiếng
Mưa thánh thót, chuyển âm cũng rất đơn giản mà vẫn hay, được lồng trong nhịp Valse
(3/4) uyển chuyển, ca từ mộc mạc mà thâm thúy, lại được gieo vần như một bài
thơ năm chữ, đã lôi cuốn người nghe như “trôi” theo Mưa và khiến người nghe cảm
nhận sự mát mẻ của Mưa, đồng thời đưa người nghe vào “khung trời yêu tuyệt
vời”. Yêu ở đây không là chuyện yêu đương đôi lứa mà là tình yêu đồng loại. Tuyệt
vời quá!
Ns Văn Phụng nhận
xét tinh tế qua những gì rất đời thường: “Mưa
rơi rơi trên đường, Mưa rơi suốt canh trường, Mưa rơi ướt phố phường, Mưa trôi
lá trong vườn, Mưa đang tí tách reo ven tường”.
Mưa không rơi
trên đường thì rơi đi đâu, không ướt đường thì ướt gì? Chuyện quá dĩ nhiên. Ấy
thế mà cái “dĩ nhiên” ấy có mấy ai để ý được như Ns Văn Phụng? Thế mới “độc” –
“độc chiêu” hoặc “độc đáo” chứ không “độc hại”. Nghệ sĩ là thế, thấy cái mà
người ta không thấy, nhưng có thể lại không thấy cái mà người ta thấy. Ngược
nhau là thế. Tia nắng chiếu vào một chiếc lá thì tia nào cũng giống nhau, nhìn
lắm lúc thấy bực mình, thế mà người có máu nghệ sĩ lại thấy ánh nắng “không
bình thường”, nghĩa là có chút “điên” (chứ không “khùng”), điên-ở-mức-cho-phép.
Thế mới “khác người”, vậy mới “lạ đời”!
Có lẽ vì không
đủ hiểu giới văn nghệ sĩ mà ông bà xưa nói: “Xướng
ca vô loài”. Khổ thật! Nhục thật! Người ta có “loài”, thú vật cũng có loài,
sinh vật cũng có loài, nhưng ai “dính líu” vào “bảy nốt nhạc” thì đều “vô loài”
(ý chê bai theo nghĩa xấu). Quá nhục!
Kệ. Cái gì “trời
cho” đều là “trò chơi”. Cứ chơi cho hết mình. Ns Văn Phụng tiếp tục tả Mưa: “Mưa rơi trên sông dài, Mưa qua khắp non
đoài, Mưa
cho thắm hoa đời, Mưa cho hết u hoài, Mưa cho đám lúa non mỉm cười”. Mưa làm
trôi u buồn nhưng lại tưới gội phù sa làm cho lúa cũng biết cười. Nhân cách hóa
hay quá!
Ông nhìn thấy
Mưa trải dọc suốt dải đất hình chữ S của Việt Nam: “Mưa đem tươi vui về cho thắm áo nâu, Mưa cho nương dâu và khoai sắn lên mau, Mưa như
trút sầu, Mưa tươi lúa đầu, Mưa rơi qua Bến Hải, Cà Mau”.
Mưa không chỉ
thấm sâu vào đất mà còn thấm cả vào từng người: “Mưa rơi trên vai chàng, Mưa rơi ướt vai nàng, Mưa rơi
khắp thôn làng, Mưa
reo những cung đàn,
Mưa như tiếng ru con dịu dàng”. Cách ví von của ông rất
tự nhiên và chân chất.
Mưa cũng biết yêu chân thành và yêu mọi người: “Mưa yêu bông hoa đời, Mưa yêu
biết bao người, Mưa
không biết hững hờ,
Mưa thương lúa bơ phờ, Mưa yêu lúa mong mưa từng giờ”.
Lạ thật! Mưa mà vẫn biết quan tâm từng chi tiết
và chú trọng cuộc sống gia đình: “Mưa
yêu thương ai nghèo,
Mưa cho lúa ngô nhiều, Mưa cho hết tiêu điều, Mưa cho
những ai nghèo, Mưa
cho thắm bữa cơm ban chiều”.
Mưa không hề ích kỷ. Mưa luôn đại lượng. Mưa
cho mọi người, dù người đó tốt hay xấu: “Mưa
rơi phương Đông rồi Mưa rơi tới phương Tây, Mưa gieo hương xuân về trên những luống cày,
Mưa rơi chốn này, Mưa
cho lúa đầy, Mưa
cho duyên ta càng nồng say”.
Không chỉ như thế, Mưa còn rất nghiêm túc và
đầy tính nhân bản: “Mưa không yêu ngang đường, Mưa không
muốn ai buồn, Mưa
yêu nước non này, Mưa
yêu mến dân cày, Mưa
cho lúa ngô hơn gạo đầy”.
Mưa là thế, và mỗi chúng ta phải nhận thức được bài học của Mưa để cuộc đời này
giảm bớt đau khổ.
Câu kết (coda) của
ca khúc MƯA ngắn gọn và cô đọng: “Mưa còn
gieo xuống đời, Mưa
về cho lúa thêm tươi”.
Ai cũng mong chờ
Mưa, ai cũng khao khát Mưa, vì ai cũng cần nước. Sau một trận mưa, trời sáng
hơn, đất hiền hơn, và mọi vật đều đổi mới. Mưa thật kỳ diệu!
Về tinh thần,
lòng người như mảnh đất khô cằn, xã hội cũng như bị hạn hán tình người, thế nên
luôn cần những Cơn Mưa Yêu Thương với những Giọt Mưa Tình Cảm. Chỉ có loại Mưa
đó mới khả dĩ làm tươi mát con người.
Muốn vậy thì
chính mỗi người phải là Giọt Mưa Yêu Thương. Mưa cho mình, mưa cho gia đình,
mưa cho xã hội, mưa cho đất nước, mưa cho thế giới, mưa cho nhau, hôm nay và
mãi mãi…
Mùa Vọng. Mùa
khát khao và mong chờ một loại Mưa Đặc Biệt là Mưa Giêsu, Mưa Thánh Ân, Mưa Cứu
Độ. Chỉ có Mưa Giêsu mới thực sự giải khát chúng ta, và nhờ đó mà
Đất-Khô-Cằn-Chúng-Ta mới hết “hạn bà chằn”.
Nhưng muốn được
“đã” cơn khát, chúng ta phải nghe lời người-mở-đường là Thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi,
phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san
cho phẳng” (Lc 3:4-5).
Đồng thời chúng
ta còn phải hứng Mưa bằng những gì mình đang có, càng lớn càng tốt: Ly, chậu,
xô, thùng, bồn,… Lòng càng bớt “quanh co” thì “dụng cụ chứa” của chúng ta càng
rộng lớn.
Trời
cao hỡi, hãy gieo xuống sương mai
Ngàn
mây ơi, hãy mưa đức công chính
Đất
nẩy mầm cứu độ linh thánh
Và chính trực sẽ vươn mạnh cao lên
(Is 45:8)
Lạy Chúa, kiếp chúng con khốn khổ quá, xin thương
mau ban Đấng Thiên Sai để chúng con được Ngài giải thoát. Chúng con cầu xin
nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
________________________________
(*)
Ns Văn Phụng tên thật là Nguyễn
Văn Phụng, sinh năm 1930 tại
Hà Nội, là con thứ hai trong một
gia đình bốn anh em. Ông học dương cầm từ
nhỏ, qua sự chỉ dạy của hai giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng. Năm
1945, Văn Phụng đã đoạt giải nhất
độc tấu dương cầm trong một cuộc tuyển lựa tại Nhà Hát Lớn Hà Nội với nhạc phẩm “La Prière d’Une
Vierge”.
Thời đi học, Văn Phụng là một học sinh xuất sắc. Ông học tiểu học tại
trường Louis Pasteur, học trung học tại trường Albert Sarraut. Năm 16 tuổi, sau
khi đậu tú tài, Văn Phụng theo học ngành y theo
ý muốn của người cha, nhưng chỉ được một năm, ông bỏ học y để theo âm nhạc. Năm 1946, Văn Phụng chạy loạn về Nam Định và trú tại
nhà thờ Tứ Trùng ở Chợ Cồn, rồi ông gặp Lm Mai Xuân Đình và linh mục này đã chỉ
dạy cho ông về âm nhạc và giáo lý. Năm 1948, ông quay về Hà Nội. Theo lệnh tổng
động viên, ông gia nhập Ban Quân nhạc Đệ tam Tiểu đoàn Danh dự. Tại đây, ông đã
quen với những người mà về sau cũng trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như Nhật
Bằng, Đan Thọ, Nguyễn Hiền, Văn Khôi, Vũ Thành,… Thời gian đó, ông được nhạc
trưởng Schmetzer (người Pháp, gốc Đức) chỉ dẫn về hòa âm.
Ông là
nhạc sĩ nổi tiếng của dòng nhạc tình miền Nam trước 1975. Một số nhạc phẩm của
ông được xếp vào thể loại tiền chiến. Ông còn được xem là một trong những nhạc
sĩ hòa âm hay nhất của Saigon trước 1975. Một số ca khúc nổi tiếng
của ông: Mưa, Mưa Rơi Trên Phím Đàn, Mưa Rơi Thánh Thót, Mộng Hải Hồ, Bức Họa
Đồng Quê, Ghé Bến Saigon, Giấc Mộng Viễn Du, Ô Mê Ly, Trăng Sáng Vườn Chè,
Trăng Sơn Cước, Vó Câu Muôn Dặm, Xuân Họp Mặt, Suối Tóc, Yêu,…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét