LTCGVN (01.01.2014)
Trong suốt 2 cuộc chiến tranh chống Pháp từ 1945 tới 1954 với kết quả là đất nước bị chia đôi, CSVN chiếm miền Bắc của vĩ tuyến 17 và xâm chiếm miền Nam từ 1954 tới 1975 để áp đặt chủ nghĩa sắt máu lên toàn quê hương, đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh đã dựa hoàn toàn vào sự giúp đỡ của khối Cộng, nhứt là của Trung Cộng. Hậu quả là bây giờ dân Việt đang phải trả nợ những sự giúp đỡ đó bằng chính quê hương của mình.
Trong quá khứ, người Việt luôn luôn phải đối đầu với người Tầu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Các nhóm Bách Việt, khởi thủy ở miền Nam Trung Hoa, bị người Tầu đồng hóa. Chỉ còn có nhóm Lạc Việt tồn tại, đến định cư ở miền Châu thổ sông Hồng Hà để lập nên nước Việt. Kể từ lúc lập quốc tại châu thổ sông Hồng Hà, dân Việt phải luôn đối phó với ý đồ xâm lăng, đồng hóa của người Tầu từ phương Bắc.
Người Tầu đã đô hộ Việt Nam trong nhiều năm:
- Từ năm 111 trước Tây Lịch cho đến năm 931 sau Tây Lịch (hơn 1 ngàn năm).
- Từ năm 1407 tới năm 1428. Vua Lê Lợi- người anh hùng áo vải đất Lam Sơn- đã đứng lên đánh đuổi quân Tầu, dành độc lập cho nước nhà.
Người Việt đã không bị đồng hóa mặc dù bị Tầu cai trị trong ngần ấy năm.
Ý tưởng xâm chiếm VN, cũng như xâm chiếm các nước nhỏ ở chung quanh như Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương... lúc nào cũng tiềm tàng trong trí óc người Tầu. Nhận viện trợ của Trung Cộng trong 2 cuộc chiến, Hồ Chí Minh và đám đồng chí không hiểu ý định thâm hiểm sâu xa của Trung Cộng hay Hồ và đám CSVN cố tình không hiểu, miễn sao áp đặt cho được chế độ CS lên quê hương; cứu cánh biện minh cho phương tiện là lý luận của Hồ và những người CSVN.
Trong sách Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính Mao Trạch Đông biên soạn năm 1938 có đoạn viết:
(Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một phần lãnh thổ của Trung Quốc:
- Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận.
- Anh chiếm Miến Điện, Bu Tan, Mã Lai và Hương Cảng.
- Pháp chiếm An Nam.)
Bản đồ sau đây được in trong cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại được xuất bản tại Bắc Kinh năm 1954. Trên bản đồ, đường chấm bao gồm lãnh thổ Trung Hoa trong đó có các nước Việt Nam, Mã Lai, Thái Lan và Triều Tiên.
Trong cuộc chiến xâm lược Miền Nam Việt Nam của CSVN từ miền Bắc từ năm 1954 tới năm 1975, người ta đã nhận ra giao hảo giữa VNCS và Trung Cộng đã có nhiều dấu hiệu của một sự đổ vỡ không hàn gắn được. Sau năm 1975, người ta mới biết Trung Cộng không bao giờ muốn CSVN đánh chiếm Miền Nam. Sau khi CSVN thành công trong công cuộc thống nhất VN bằng võ lực, mối bất đồng càng ngày càng lộ rõ. Sau khi Lê Duẩn đi Nga Sô ký hiệp ước hỗ tương quân sự và nhứt là sau khi VNCS đưa quân đội tràn qua chiếm Campuchia, lật đổ Chính Phủ CS của Polpot vào năm 1978, Trung Cộng đình chỉ các viện trợ cho VN, đồng thời rút hết các chuyên viên về nước. Lãnh tụ Trung Cộng Đặng Tiểu Bình luôn luôn lớn tiếng đe dọa: Trung Hoa Cộng Sản sẽ phải dậy cho Việt Nam một bài học.
Mặt trận trải dài khắp biên giới Việt-Trung
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, hơn 300 000 quân Trung cộng đồng loạt tấn công VN ở dọc vùng biên giới giữa hai nước, trên một mặt trận trải dài khắp vùng biên giới. Phía Việt Nam bị bất ngờ nên chỉ có bộ đội địa phương được đưa ra để đối đầu với quân Trung Cộng. Các đơn vị quân chánh qui của VN Cộng Sản còn đang bị kẹt ở mặt trận Cao Miên. Người ta đặt dấu hỏi quân báo của CSVN ở đâu mà không phát hiện quân Tầu tập trung, không phải vài ngàn, mà là hơn 300 000 quân với đại pháo, xe bọc sắt ở vùng biên giới giữa hai nước.
Trung Cộng gọi đây là cuộc trừng phạt, để dạy cho kẻ bất nghĩa Việt Nam một bài học. Quân TC tràn sang VN với tiêu lệnh: giết sạch, phá sạch. Dù chỉ có các du kích và quân địa phương, phía VN đã dũng cảm đối đầu với quân Trung Cộng. Hai bên cùng bị thiệt hại nặng. Quả là một bài học bằng xương máu của hàng trăm ngàn người ở cả hai nước. Máy bay của Nga Sô đã không vận các đơn vị chánh qui của CSVN từ Campuchia về. Một phòng tuyến được thiết lập để bảo vệ Thủ đô Hà Nội gọi là Phòng Tuyến Sông Cầu nhưng ngày 18 tháng 3 năm 1979, Quân Tầu tự ý rút về sau khi đã diệt hết dân lành, phá tan tành mấy tỉnh miền biên giới như Lạng Sơn, Cao Bằng. Lào Kai và một số tỉnh ở sát biên giới. Cả 2 bên đều tuyên bố là mình thắng trận.
Từ năm 1979 cho mãi tới năm 1990, cuộc xung đột biên giới mới chấm dứt.
Kể từ 1979 đến năm 1990, có ít nhứt 6 cuộc giao tranh lớn ở vùng biên giới. Trận chiến núi Lão Sơn là một trận mà chiến địa đổi chủ nhiều lần với hàng ngàn binh sĩ hai bên bị giết. Sau chiến tranh biên giới năm 1979, Trung Cộng đã nhận ra sự yếu kém của Hồng Quân Trung Hoa nên họ đã ra sức canh tân, hiện đại hóa quân đội.
Sau trận chiến biên giới năm 1979, các trận đấu võ miệng trên các phương tiện truyền thông của cả hai bên được tận dụng. Năm 1979, nhà xuất bản Sự Thực của Cộng sản Việt Nam ấn hành sách Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung quốc nhằm vạch trần âm mưu của chủ nghĩa bá quyền Trung quốc. Theo tập tài liệu này: (những dòng in nghiêng sau đây là nguyên văn được trích từ tập tài liệu này).
- Năm 1954, họ (TC) những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình để thương lượng riêng với Pháp và cùng nhau thỏa hiệp về một giải pháp có lợi cho họ và Pháp. Không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
- Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, lần đầu tiên, được ngồi ngang hàng với 4 cường quốc, Ủy Viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (nhờ chiến tranh ở Việt Nam).
- Nhà cầm quyền Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên cứu nước và càng ngày càng dành được nhiều thắng lợi.
- Năm 1974, với sự đồng ý ngầm của Hoa Kỳ, họ đã chiếm quần đảo Hoàng Sa. (LNV: Thực ra CS Việt Nam đã tránh không nhắc tới Công Hàm gửi Châu Ân Lai của Phạm Văn Đồng năm 1958, xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.)
- Chính sách ngày nay của các nhà lãnh đạo Trung quốc đối với Việt Nam, mặc dù được ngụy trang khéo léo như thế nào vẫn chỉ là các chính sách của Hoàng Đế Thiên Triều trong mấy ngàn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam.
- Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ 1954 tới nay:
* Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm: điển hình là khu vực Trịnh Tường tại tỉnh Quảng Ninh.
* Lợi dụng các công trình xây cất hữu nghị để đẩy lùi cột biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam...
* Năm 1955 khi làm lại đường sắt tại khu Hữu Nghị quan, họ đã dời đường sắt vào sâu ở phía Việt Nam 300 mètres.
* Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới, lấn sang Việt Nam.
* Mượn đất của Việt Nam để sinh hoạt sau biến thành lãnh thổ Trung Quốc.
* Xê dịch các mốc để sửa đổi đường biên giới.
* Làm đường biên giới lấn sang phía Việt Nam.
* Lợi dụng việc giúp Việt Nam vẽ bản đồ để chuyển dịch đường biên giới.
* Dùng lực lượng vũ trang để uy hiếp và đóng chốt để chiếm đất.
* Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa.
- Trong cuộc chiến thống nhất đất nước 1954-1975, Trung Quốc luôn luôn tìm cách cản trở Việt Nam:
* Thời kỳ 1954-1964, Trung Quốc ngăn cản nhân dân Việt Nam đấu tranh để thống nhất đất nước.
* Thời kỳ 1965-1969: làm yếu và kéo dài cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
* Thời kỳ 1969-1973: đàm phán với Mỹ trên lưng nhân dân VN.
* Thời kỳ 1973-1975:cản trở nhân dân Việt Nam hoàn toàn giải phóng miền Nam.
- Sau năm 1975 Trung Quốc tiếp tục chính sách gây khó khăn cho Việt Nam như:
* Chính sách Nạn kiều.
* Các áp lực về kinh tế, chính trị.
Trong 30 năm vừa qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, Việt Nam phải là nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc... Chính sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam Á Châu...
Tóm lại trong 30 năm vừa qua, những người cầm quyền ở Trung Quốc đã 3 lần phản bội Việt Nam:
1- Tại hội nghị Gơ ne vơ năm 1954 họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc của nhân dân Việt Nam, không những để bảo đảm cho nước họ một vành đai an ninh ở phía Nam, mà còn đ‹ chuẩn bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ bành trướng ở Đông Dương và Đông Nam Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
2- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình Diệm bị suy đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam.
3- Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị thực dân mới của Đế quốc Mỹ và thống nhứt nước nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị, kinh tế, ngoại giao để làm suy yếu nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, tiến đến dùng lực lượng quân sự của bè lũ tay sai Pôn Pốt- Iêng Xa-ry xâm lược Việt Nam ở phía Tây Nam và lực lượng quân sự của Trung Quốc trực tiếp xâm lược Việt Nam ở phía Bắc, giết hại nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế, văn hóa của Việt Nam ở các vùng có chiến sự.
Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn thỉu hơn lần trước.
...Để che giấu bộ mặt phản bội của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung Cộng viện trợ cho nước Việt Nam, thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
Thực là cạn tầu ráo máng giữa 2 đồng chí đã từng một thuở keo sơn.
Phía Trung Cộng cũng không chịu kém. Qua chương trình Việt Ngữ của Đài Phát thanh Bắc Kinh, Trung Cộng đã tố cáo giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam là phản trắc, côn đồ, vong ơn, "ăn cháo đái bát". Họ trưng những tài liệu, chứng cớ về những "hy sinh" của Trung Quốc đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam từ thời chống Pháp năm 1946, cho tới năm 1975.
Sau trận chiến tranh biên giới năm 1979, Trung Cộng đã nhận ra những yếu kém của Giải phóng Quân nên đã bỏ rất nhiều tiền để canh tân và phát triển quân đội, kiện toàn Hải Lục Không Quân. Thí dụ về Hải Quân, Trung Cộng trở nên hùng mạnh ở Thái Bình Dương, chỉ thua Hải Quân Hoa Kỳ. Trung Cộng đã trở thành 1 cường quốc về kinh tế, về quân sự khác hẳn Trung Cộng 30 năm về trước.
Trung Cộng đang hung hăng tại Biển Đông. Họ đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trương Sa của Việt Nam.
Năm 1991, Chủ nghĩa Cộng Sản cáo chung, các nước Đông Âu được tự do. Ngay tại Nga Sô, cái nôi của cách mạng Cộng Sản, chủ nghĩa Mác Lê cũng bị vất vào sọt rác. Nhân loại chỉ còn 4 nước vẫn còn bị dưới ách chế độ Cộng Sản là Trung Hoa, Cuba, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Trung Cộng mặc nhiên trở nên nước Cộng Sản "xếp sòng" trong 4 nước Cộng Sản còn lại. Việt Nam Cộng Sản mất chỗ dựa, mất đi "bầu sữa Liên Sô" nên trở nên "mồ côi" bơ vơ.
Các đỉnh cao trí tuệ loài người của Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội, để sống còn, quyết định dựa vào Trung Cộng. Họ cố gắng tìm cách cải thiện bang giao giữa 2 nước. Nhưng gương vỡ làm sao lành bây giờ! Trung Cộng trở nên rất dè dặt đối với Việt Nam, đứa em bất nghĩa vong ân. Các lãnh đạo của CSVN như Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu... lần lượt sang Bắc Kinh để cầu khẩn Trung Cộng nối lại tình xưa. Trung Cộng đã lợi dụng thế thượng phong để ép các đầu sỏ VNCS ký những hiệp định hoàn toàn bất lợi cho quê hương VN. Các nhà lãnh đạo CSVN cứ nhắm mắt tuân lời quan thầy Trung Cộng nên dấu kín nhân dân Việt Nam những thỏa thuận bán nước này.
Mối giao tình không còn thắm thiết như thuở nào. Trung Cộng không ngừng tạo sức ép, gây áp lực trên Việt Nam về mọi phương diện.
- Về kinh tế, hàng hóa của Trung Cộng đang tràn ngập Việt Nam, phá hoại nền kinh tế của Việt Nam. Trung Hoa là nước đứng đầu trong các trao đổi mậu dịch thương mại với VN. Từ 210 triệu dollars năm 2001, năm 2012 đã đạt mức 16 tỷ dollars năm 2012. Thủ Tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường nói tới con số dự trù là 60 tỷ dollars cho năm 2015 để rồi đạt mức 100 tỷ dollars năm 2017. Cán cân thương mại luôn luôn nghiêng về phía Trung Cộng. Ngoài ra hàng lậu đến từ Tầu qua ngả biên giới đang tràn ngập VN. Trong đó ta phải kể đến các hàng hóa độc hại, hư thối cho người tiêu thụ. Trung Cộng đang hoặc thu mua hoặc thuê hàng ngàn ngàn mẫu đất của VN với giá thực rẻ. Người Tầu được tự do sang Việt Nam làm ăn, không cần Visa; đó là một mối nguy cho tiền đồ dân tộc.
- Về quân sự, Hải quân Trung Cộng đã hoàn toàn chiếm cứ biển Đông. Hải Quân của Cộng Sản Hà Nội đã đụng độ vớ Hải Quân Trung Quốc nhiều lần, đều bị thảm bại. Điển hình là trận Hải chiến năm 1998. Trung Cộng đã cấm ngư dân Việt Nam đi đánh cá ở Biển Đông. Họ cho rằng biển Đông thuộc về họ. Ngư dân Việt Nam đã bị họ bắt, giết. Ngư thuyền bị tịch thu.
Chánh phủ Việt Nam Cộng Sản của các đỉnh cao trí tuệ loài người tại Hà Nội im lặng làm ngơ.
Thỉnh thoảng TC cho phát tán lên Internet những lời tố cáo VNCS là những kẻ vô ơn hoặc những ý đồ chinh phục VN bằng quân sự trong 30 ngày để chiếm trọn VN. Tất cả những hăm dọa đó có ẩn ý là tạo một trạng thái tinh thần bất ổn trong hàng ngũ dân Việt. Sau những trận chiến biên giới, kéo dài từ năm 1979 tới năm 1990, TC hiểu rõ việc chinh phục VN bằng võ lực - như cha ông của họ đã từng làm - không còn thích hợp cho chính sách xâm lấn của của họ nữa, họ nhắm chinh phục VN bằng các phương tiện khác. Quân sự chỉ là con ngáo ộp thôi.
- Về chính trị, Trung Cộng đã ép các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam ký những hiệp định nhượng đất, nhượng biển cho họ. Thí dụ những Hiệp định do Lê Khả Phiêu ký năm 1999, năm 2000, cùng những thỏa thuận cắm mốt biên giới. Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc đã thuộc về Trung Cộng. Kiều Công Tiễn thời Ngô, Trần Ích Tắc thời Trần, Lê Chiêu Thống đời Nhà Lê là những kẻ bán nước nhưng học chỉ là những tên phản quốc lẻ loi. Giờ đây, dân Việt bị cả một tập đoàn Cộng Sản phản quốc gồm 16 tên trong Bộ Chánh Trị, gần 500 tên Ủy Viên trong Trung Ương Đảng, 3 triệu đảng viên đang bán rẻ quê hương cho kẻ thù truyền kiếp như Kiều Công Tiễn, Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc... đã làm.
- Người Tầu đã vào Tây Nguyên, gọi là để khai thác Bau xít. Họ vào với con số hàng chục ngàn người. Tây Nguyên, xương sống chiến lược của đất nước, đã bị người Tầu chiếm đóng. Ngoài ra người Tầu đã sang định cư vĩnh viễn ở VN. Các phố Tầu đã mọc lên tại các tỉnh như ở Bình Dương, ở Lạng Sơn... Cư dân Tầu ở các khu người Tầu đều coi thường Luật Pháp của Việt Nam, họ hành xử theo luật pháp do chính họ đặt ra.
- Trong việc giao thiệp với Việt Nam, Trung Cộng luôn luôn giữ thế trịch thượng. Các lãnh tụ của Cộng Sản Việt Nam như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng đều phải sang Tầu để triều kiến. Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, theo lời đòi hỏi của Trung Cộng, đã cấm các cuộc biểu tình tự phát của dân Việt phản đối việc xâm lăng của Trung Cộng. Các người biểu tình bị đàn áp và bắt giam. Thậm chí những bài viết online chống Trung Cộng cũng bị Trung Cộng ra lệnh cho Cộng sản Việt Nam cấm đoán.
Người Việt bi quan, lo sợ trước viễn ảnh đất nước đang bị Trung Cộng cưỡng chiếm từ từ để thực hiện cho được nguyện ước của Mao Trạch Đông. Mới đây, người ta đọc trên Internet một tài liệu nói là tài liệu của Tình báo Trung Quốc nói về sự cam kết của hai ông Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh là hai Cựu Tổng Bí Thư của Đảng CSVN về sự sát nhập Việt Nam vào Trung Hoa vĩ đại. Sự sát nhập này sẽ được tiến hành làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 từ năm 2000 tới năm 2020. Trong giai đoạn này VN sẽ giải quyết các bất đồng trong nội bộ.
- Giai đoạn 2, từ năm 2020 tới năm 2050. VN sẽ hoàn toàn trở về với đất Mẹ (?), Trung Quốc. Nước VN sẽ biến mất trên bản đồ thế giới.
Hư thực ra sao? Ta không rõ nhưng hơn lúc nào hết, viễn tượng mất nước đang đè nặng trên tâm tư của con cháu Lạc Hồng tại khắp nơi trên thế giới.
Chúng ta cần một Hội nghị Diên Hồng. Không biết những người Cộng Sản Việt Nam có ý thức được là họ đang làm mất quê hương không?
Montréal 12-2013
0 nhận xét:
Đăng nhận xét