Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Khoảng mong chờ

Khoảng mong chờ

(Chúa nhật XIX TN, năm C)

Ai cũng có những khoảng mong chờ, chung hay riêng, lâu hay mau, mong chờ ai đó hoặc điều gì đó. Khoảng mong chờ là miền sa mạc của tâm hồn. Khoảng mong chờ nào cũng đều có nỗi trăn trở đặc thù, dù “khoảng” đó rộng hay hẹp. Có tin tưởng mới mong chờ, mà mong chờ thì phải sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu cũng cháy bỏng mong chờ nên Ngài đã phải thốt lên: “Tôi khát” (Ga 19:28).
Khát gì? Trong một lần tham dự Thánh lễ, Thánh Faustina thị kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá, và nghe thấy tiếng kêu than phát ra từ Thánh Tâm Chúa: “Ta khát. Ta khao khát cứu độ các linh hồn. Hỡi ái nữ của Ta, hãy giúp Ta cứu các linh hồn. Hãy kết hiệp những nỗi đau khổ của con với Cuộc Khổ Nạn của Ta và dâng mọi đau khổ lên Chúa Cha để cứu các tội nhân” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1032).
Nỗi mong chờ của Chúa Giêsu quá lớn vì chúng ta quá cứng lòng. Thánh Phêrô đã nhận xét: “Người công chính còn khó được cứu độ” (1 Pr 4:18). Khó lắm, do đó mà phải cố gằng không ngừng, không thể cứ “tỉnh queo” hoặc “chờ sung rụng”. Phải SỐNG ĐẠO chứ không chỉ GIỮ ĐẠO. Sống đạo thì phải phải tích cực chứ không thể “mơ màng” rồi “yêu sách” với Chúa đủ thứ! Cái khó đó không phải Thiên Chúa “hạn chế” ơn cứu độ, mà vì chúng ta chưa thực sự chấp nhận Thiên Chúa là cứu cánh tối hấu hậu.

Chúng ta cũng mong chờ ngày đêm, mong chờ được yêu Chúa hết lòng, mong chờ được cứu độ, được tận hưởng vĩnh phúc trường sinh nơi Thiên Quốc – nơi Chúa Giêsu đang mong đợi chúng ta. Sách Khôn Ngoan cho biết: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm. Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18:6-7).
Sách Khôn Ngoan cho biết thêm: “Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương để làm cho chúng con được rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. Con lành, cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Và ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do cha ông truyền lại” (Kn 18:). Không thể mong chờ với động thái thụ động, mà phải tích cực hành động cụ thể để chứng tỏ sự mong chờ và thánh hóa nỗi mong chờ, nhờ đó và với đức tin, người mong chờ được nên công chính.
Tác giả Thánh vịnh kêu gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen” (Tv 33:1). Tại sao? Bởi vì người công chính là người thuộc về Chúa: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12).
Thiên Chúa luôn “để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19). Chúng ta phải chứng tỏ được sự thật minh nhiên: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20). Ai như vậy thì thật là hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng rất hạnh phúc.
Thánh Phaolô xác định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11:1-2). Rõ ràng Đức Tin rất quan trọng. Vì TIN mà (trông) CẬY (hy vọng), cũng vì TIN mà YÊU (mến). Đó là bộ ba quan yếu cho đời sống tâm linh, gọi là ba nhân đức đối thần (nhân đức thần học). Mối liên kết rất lô-gích và chặt chẽ.
Thánh Phaolô dẫn chứng: “Nhờ đức tin, ông Ápraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 11:8-11). Đó là những Đức Tin chân chính, thuần túy và tuyệt đối. Tin tưởng chứ không ảo tưởng. Thật vậy, TIN được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Ranh gới rất mong manh, vì vậy mà phải luôn thận trọng: Cẩn tắc vô ưu!
Thánh Phaolô giải thích: “Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài” (Dt 11:12-16). Cách giải thích có vẻ “dài hơi”, nhưng phải vậy để chúng ta hiểu rõ, không gì mơ hồ trên hành trình Đức Tin.
Thánh Phaolô dẫn chứng thêm: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Ápraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật, ông Ápraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11:17-19). Vì tin vô điều kiện, tin đến mức sẵn sàng hy sinh chính đứa con yêu của mình, ông Ápraham trở thành tổ phụ của những người tin – tín nhân hoặc tín hữu. Đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, tuyệt đối tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng chí nhân và chí thiện, Ngài muốn chúng ta được hưởng những điều tốt lành của Ngài, nhưng để chúng ta được vậy thì Ngài muốn chúng ta hết lòng tín thác và yêu mến Ngài, và cũng để được Ngài yêu thương hết lòng, như Chúa Giêsu đã từng động viên và nhắn nhủ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Chúa Giêsu căn dặn mọi người: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:33-34). Cũng như một lần khác Ngài so sánh: Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:28; Lc 17:37). Rất thực tế, chẳng có gì khó hiểu.
Chúa Giêsu ví dụ cụ thể: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12:35-40). Ngài không muốn chơi trò ú tim hoặc “gài bẫy” chúng ta, mà Ngài muốn như vậy để công trạng của chúng ta được tăng lên. Vả lại, khi chờ đợi thì đâu ai biết điều gì đó có xảy đến hay không, hoặc người đó có đến hay không. Nếu có hẹn trước thì miễn bàn, chẳng có gì thú vị.
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” (Lc 12:41). Xem chừng Phêrô nhà ta chân chất thật thà quá cỡ thợ mộc, dường như hóa ngây ngô! Rồi Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12:43-46). Có thể chúng ta không đến nỗi “chè chén say sưa”, “chén thù chén tạc” hoặc “chén chú chén anh”, nhưng cách sống của chúng ta đã “tố giác” như vậy: Còn trẻ, còn khỏe, còn thở,... chưa chết đâu!
Nhưng bất ngờ, nước ngập đến chân, chạy gì nổi! Thế thì tiêu! Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít” (Lc 12:47-48a). Cái sự “không biết” ở đây không phải là “giả nai” rồi tìm cách biện hộ. Cuối cùng, Chúa Giêsu nói một câu khiến chúng ta phải giật mình: “Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12:48b). Đó là luật công bằng, vì Thiên Chúa rất mực công bình.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sẵn sàng và tích cực sống Đức Tin trong thời gian mong chờ Con Chúa trở lại, dù lâu hay mau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.


TRẦM THIÊN THU
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN

0 nhận xét:

Đăng nhận xét