Khoảng mong chờ
(Chúa
nhật XIX TN, năm C)
Ai cũng có những khoảng mong chờ,
chung hay riêng, lâu hay mau, mong chờ ai đó hoặc điều gì đó. Khoảng mong chờ
là miền sa mạc của tâm hồn. Khoảng mong chờ nào cũng đều có nỗi trăn trở đặc
thù, dù “khoảng” đó rộng hay hẹp. Có tin
tưởng mới mong chờ, mà mong chờ
thì phải sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu
cũng cháy bỏng mong chờ nên Ngài đã phải thốt lên: “Tôi khát” (Ga 19:28).
Khát gì? Trong một lần tham dự Thánh lễ, Thánh Faustina thị
kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá, và nghe thấy tiếng kêu than phát ra
từ Thánh Tâm Chúa: “Ta khát. Ta khao khát
cứu độ các linh hồn. Hỡi ái nữ của Ta, hãy giúp Ta cứu các linh hồn. Hãy kết
hiệp những nỗi đau khổ của con với Cuộc Khổ Nạn của Ta và dâng mọi đau khổ lên
Chúa Cha để cứu các tội nhân” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1032).
Nỗi mong chờ của Chúa Giêsu quá lớn
vì chúng ta quá cứng lòng. Thánh Phêrô đã nhận xét: “Người công chính còn khó được cứu độ” (1 Pr 4:18). Khó lắm, do đó
mà phải cố gằng không ngừng, không thể cứ “tỉnh queo” hoặc “chờ sung rụng”.
Phải SỐNG ĐẠO chứ không chỉ GIỮ ĐẠO. Sống đạo thì phải phải tích cực chứ không
thể “mơ màng” rồi “yêu sách” với Chúa đủ thứ! Cái khó đó không phải Thiên Chúa
“hạn chế” ơn cứu độ, mà vì chúng ta chưa thực sự chấp nhận Thiên Chúa là cứu
cánh tối hấu hậu.
Chúng ta cũng mong chờ ngày đêm,
mong chờ được yêu Chúa hết lòng, mong chờ được cứu độ, được tận hưởng vĩnh phúc
trường sinh nơi Thiên Quốc – nơi Chúa Giêsu đang mong đợi chúng ta. Sách Khôn
Ngoan cho biết: “Đêm ấy đã được báo trước
cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các
ngài thêm can đảm. Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính
trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18:6-7).
Sách Khôn Ngoan cho biết thêm: “Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương
để làm cho chúng con được rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. Con lành,
cháu thánh của những người lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng
tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng
hưởng, có hoạ cùng chia. Và ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do
cha ông truyền lại” (Kn 18:). Không thể mong chờ với động thái thụ động, mà
phải tích cực hành động cụ thể để chứng tỏ sự mong chờ và thánh hóa nỗi mong
chờ, nhờ đó và với đức tin, người mong chờ được nên công chính.
Tác giả Thánh vịnh kêu gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ
ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen” (Tv 33:1). Tại sao? Bởi vì người công
chính là người thuộc về Chúa: “Hạnh phúc
thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia
nghiệp” (Tv 33:12).
Thiên Chúa luôn “để mắt trông nom
người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay
thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19). Chúng ta phải chứng tỏ
được sự thật minh nhiên: “Tâm hồn chúng
tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Xin đổ tình thương xuống
chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20). Ai
như vậy thì thật là hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng rất hạnh phúc.
Thánh Phaolô xác định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy
vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân
đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11:1-2). Rõ ràng Đức Tin rất quan trọng.
Vì TIN mà (trông) CẬY (hy vọng), cũng vì TIN mà YÊU (mến). Đó là bộ ba quan yếu
cho đời sống tâm linh, gọi là ba nhân đức đối thần (nhân đức thần học). Mối
liên kết rất lô-gích và chặt chẽ.
Thánh Phaolô dẫn chứng: “Nhờ đức tin, ông Ápraham đã vâng nghe tiếng
Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã
ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như
tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Giacóp là
những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây
dựng. Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh
con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”
(Dt 11:8-11). Đó là những Đức Tin chân chính, thuần túy và tuyệt đối. Tin
tưởng chứ không ảo tưởng. Thật vậy, TIN
được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG được Chúa yêu thì lại là kiêu
ngạo. Ranh gới rất mong manh, vì vậy mà phải luôn thận trọng: Cẩn tắc vô ưu!
Thánh Phaolô giải thích: “Vì thế, do một người duy nhất, một người kể
như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài
nào đếm được. Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa
được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào
các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những
người nói như vậy cho thấy là họ đang đi
tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi,
thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt
đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho
các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành
cho các ngài” (Dt 11:12-16). Cách giải thích có vẻ “dài hơi”, nhưng phải
vậy để chúng ta hiểu rõ, không gì mơ hồ trên hành trình Đức Tin.
Thánh Phaolô dẫn chứng thêm: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Ápraham
đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về
người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có một dòng dõi mang
tên ngươi. Quả thật, ông Ápraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người
chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng”
(Dt 11:17-19). Vì tin vô điều kiện, tin đến mức sẵn sàng hy sinh chính đứa
con yêu của mình, ông Ápraham trở thành tổ phụ của những người tin – tín nhân
hoặc tín hữu. Đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, tuyệt đối tín thác vào
Lòng Thương Xót của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng chí nhân và chí thiện,
Ngài muốn chúng ta được hưởng những điều tốt lành của Ngài, nhưng để chúng ta
được vậy thì Ngài muốn chúng ta hết lòng tín thác và yêu mến Ngài, và cũng để
được Ngài yêu thương hết lòng, như Chúa Giêsu đã từng động viên và nhắn nhủ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh
em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Chúa Giêsu căn dặn mọi người: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy
sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên
trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em
ở đó” (Lc 12:33-34). Cũng như một lần khác Ngài so sánh: “Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:28; Lc
17:37). Rất thực tế, chẳng có gì khó hiểu.
Chúa Giêsu ví dụ cụ thể: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho
sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ
cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là
phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến
bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn
thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này:
nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà
mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con
Người sẽ đến” (Lc 12:35-40). Ngài không muốn chơi trò ú tim hoặc “gài
bẫy” chúng ta, mà Ngài muốn như vậy để công trạng của chúng ta được tăng lên.
Vả lại, khi chờ đợi thì đâu ai biết điều gì đó có xảy đến hay không, hoặc người
đó có đến hay không. Nếu có hẹn trước thì miễn bàn, chẳng có gì thú vị.
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng
con hay cho tất cả mọi người?” (Lc 12:41). Xem chừng Phêrô nhà ta chân chất
thật thà quá cỡ thợ mộc, dường như hóa ngây ngô! Rồi Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín,
khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc
gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật
là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả
tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”,
và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy
sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra,
bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12:43-46). Có thể chúng
ta không đến nỗi “chè chén say sưa”, “chén thù chén tạc” hoặc “chén chú chén
anh”, nhưng cách sống của chúng ta đã “tố giác” như vậy: Còn trẻ, còn khỏe, còn
thở,... chưa chết đâu!
Nhưng bất ngờ, nước ngập đến chân,
chạy gì nổi! Thế thì tiêu! Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm
theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện
đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít” (Lc 12:47-48a). Cái sự “không biết” ở đây
không phải là “giả nai” rồi tìm cách biện hộ. Cuối cùng, Chúa Giêsu nói một câu
khiến chúng ta phải giật mình: “Ai đã
được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi
nhiều hơn” (Lc 12:48b). Đó là luật công bằng, vì Thiên Chúa rất mực công
bình.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sẵn sàng và tích cực sống Đức
Tin trong thời gian mong chờ Con Chúa trở lại, dù lâu hay mau. Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét