LTCGVN (12.01.2014)
Người Con yêu dấu
(Chúa
Nhật I thường niên, năm A – Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa)
“Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2:7). Người Con đó là Đức
Giêsu Kitô, là Ngôi Lời có từ khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên
Chúa (Ga 1:1), ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga
1:4).
Trên núi Tabor, khi được chứng kiến
Chúa Giêsu biến hình, chính các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng được nghe
tiếng phán ra từ đám mây: “Đây là Con Ta
yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7).
Nói đến người con là có Tình Phụ Tử
ẩn chứa trong đó rồi. Nhưng ở đây, Tình Phụ Tử không đơn thuần như tình cha con
bình thường về nhân tính mà là Tình Phụ Tử về thần tính của ngôi vị Thiên Chúa.
Tình Phụ Tử của con người đã có cái gì đó thiêng liêng lắm rồi, huống chi Tình
Phụ Tử của Thiên Chúa.
Về tình thương và công cha nghĩa mẹ
trần gian, chúng ta đã phải ghi tạc sâu đậm suốt đời, chứ không thể coi đó là
“chuyện dĩ nhiên” mà một số ác tử bất hiếu nhẫn tâm đối xử tàn tệ với song thân
phụ mẫu của mình. Vì thế, ca dao Việt Nam đã vừa so sánh, vừa đặt vấn đề và
vừa nhắn nhủ mỗi chúng ta là những người con yêu:
Đố ai đếm được lá
rừng
Đố ai đếm được mấy
từng trời cao
Đố ai đếm được những
vì sao
Đố ai đếm được công lao mẫu từ
Đức Giêsu Kitô là Người Con Yêu Dấu
mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới từ ngàn xưa với danh xưng “Người Tôi Trung”. Chính
trong “Bài Ca Thứ Nhất” của Người Tôi Trung, Người Con đó được xác định: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người
Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó
sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ
trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó
không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong
được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4).
Chữ “công lý” được đề cập 3 lần,
điều đó cho thấy Người Con này rất cương quyết, tuy thật thà nhưng thẳng thắn
trừng trị những kẻ ngang bướng, không tôn trọng Chân Lý, dám bóp méo Sự Thật.
Chính trong “Bài Ca Thứ Nhất” cũng nói tới những “đặc tính” của Người Tôi
Trung: không kêu to, không nói lớn, không trù dập kẻ yếu thế, không yếu hèn,
không khuất phục,...
Chính Người Cha đã xác nhận thế
này: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì
muốn làm sáng tỏ đức công chính của
Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh
sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những
người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is
42:6-7). Người Cha rất chính trực nên Người Con cũng rất thẳng thắn, bình
thường hóa cách nói như Việt ngữ là “Cha nào, Con nấy” (theo nghĩa tích cực và
tốt lành).
Cả Cha và Con đều tuyệt đối tuyệt
vời và tuyệt vời tuyệt đối. Nhưng có điểm vô cùng đặc biệt “không giống ai” là
Cha và Con đều chính trực, không thiên vị, không phe cánh, không vị nể, luôn
thẳng thắn, thế nhưng lại giàu lòng thương xót. Phàm nhân không thể nào hiểu
nổi!
Người Tôi Trung đó chính là Người
Con Yêu Dấu, là Đấng Ái Tử, tôn danh Giêsu Kitô, Đấng đã giáng sinh nơi Hang
Belem và chịu chết trên Đồi Can-vê. Người Con Yêu Dấu đó chính là Ngôi Hai
Thiên Chúa, Đức Chúa của chúng ta. Thật vui mừng và hạnh phúc biết bao! Vì thế,
chúng ta phải nghe lời kêu gọi của tác giả Thánh Vịnh: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh
quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm
thánh thiện” (Tv 29:1-2). Thiên Chúa dũng mãnh vô song, Ngài hiện hữu mọi
nơi nhưng không ai có thể nhìn thấy Ngài, mà chỉ có thể nhận biết: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên
Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa
thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm! Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi,
tuốt trụi lá cây cao rừng rậm” (Tv 29:3-4, 9a).
Chúng ta phải tuyên xưng Ngài ở mọi
nơi, mọi lúc, và với mọi người. Còn khi ở trong thánh điện Ngài, tất cả phải cùng
hô: “Vinh danh Chúa!” (Tv 29:9b). Câu
này cũng “nhắc khéo” và “nhắc lớn” (chứ không “nhắc nhỏ”) đối với mỗi chúng ta:
“Đừng chỉ là CHIÊN khi ở trong nhà thờ,
còn ra khỏi nhà thờ thì hóa thành CỌP”.
Với tinh thần bảo vệ chân lý và làm
theo sự thật, có lần Thánh Phêrô đã thẳng thắn lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên
Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở
lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Người tiếp nhận. Người đã
gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu
Kitô, là Chúa của mọi người” (Cv 10:34-35a). Rất rõ ràng. Thiên Chúa là
thế. Tuy nhiên, người ta thường ảo tưởng rằng mình đã được rửa tội, là Kitô hữu
chính hiệu, và vẫn giữ đạo đầy đủ thì chẳng có gì phải lo. Vâng, người ta chỉ
chú trọng mức “giữ đạo” chứ không cần “sống đạo”. Thực sự không biết hay không
muốn biết? Giữ đạo mới là mức tiêu cực, sống đạo mới là mức tích cực. Vì quên
hay cố ý quên?
Giáo hoàng Phêrô nói thêm về Người
Con yêu Dấu: “Quý vị biết rõ biến cố đã
xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan
rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng
Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân
giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở
với Người” (Cv 10:35b-38). Những điều này không “xa lạ”, vì Kitô hữu nào
cũng đã rạch ròi. Nhưng biết để mà biết thì vô ích, mà phải làm cái gì đó
“khác” hơn thì mới đúng ý Chúa: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc
16:15). Chưa cần đi đâu xa, hãy “đi” tới nơi gần nhất là người lân cận,
nghĩa là sống sao cho bất kỳ ai gặp chúng ta thì họ cũng có thể “nhìn thấy”
Chúa nơi chính mỗi chúng ta.
Ông Gioan thể hiện nết giản dị rất
rõ: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng
dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3:4). Quá mức giản
dị, giản dị tới mức “bụi đời”. Người giản dị là người sống sâu sắc, có tư tưởng
thâm thúy và khác người. Người ưa bề ngoài là người nông cạn, muốn dùng “hình
thức” để khỏa lấp “khoảng trống” trong tâm hồn. Ông-bụi-đời cũng luôn cương
trực, thẳng như ruột ngựa, ông nói thẳng thắn với tinh thần yêu thương và khiêm
nhường: “Tôi, tôi làm phép rửa cho quý vị
trong nước để giục lòng quý vị sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn
tôi, tôi không đáng xách dép cho Ngài.
Ngài sẽ làm phép rửa cho quý vị trong Thánh Thần và lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài
sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào
lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3:11-12).
Sau đó, Đức Giêsu từ miền Galilê
đến sông Gio-đan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Sao lại như
vậy nhỉ? Thế nên ông một mực can Ngài và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với
tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Thì ra là thế. Biết được ý
Đức Giêsu rồi, ông Gioan mới chiều theo ý Ngài.
Đêm Chúa Giêsu giáng sinh đã có
những điềm lạ tỏ tường, nay lại có điềm lạ khác: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa
xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa đáp
xuống như chim bồ câu và ngự trên Người Con yêu Dấu. Đặc biệt hơn là có tiếng
từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta,
Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17).
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con sống đúng bổn phận và trách nhiệm làm
con cái. Từ buổi mai, xin cho chúng con được no say tình Chúa, để ngày ngày
được hớn hở vui ca (Tv 90:14). Nguyện xin Chúa dủ thương và chúc phúc, xin toả
ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và
muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài (Tv 67:2-3). Chúng con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
0 nhận xét:
Đăng nhận xét