THỰC CHẤT NHỮNG CUỘC CÁCH MẠNG
Kính Dâng Tặng Tổ Quốc Và Đồng Bào Việt Nam
Hơn nữa, chúng ta thấy trong nhiều
quốc gia có lớp dân thù hận hay chống lại một giai cấp trưởng giả mới (nouvelle
bourgeoisie), xuất phát từ thể chế nói là độc lập, nhưng thật ra là lớp người
tư sản, quân phiệt, tư bản đỏ học đòi làm trưởng gả, bọn này là “tay sai, nô bộc”
của Mỹ, Pháp, Nga, Trung Cộng, Tây Phương và bọn thế lực Tư Bản rừng rú
v.v.. Chúng cấu kết với nhau để hưởng lợi các quyền lợi kinh tế, mà bọn trưởng
giả vô liêm sỉ này đã muối mặt bán đứng quê hưong và dân đen cho bọn Tư Bản thực
dân này trục lợi trên mồ hôi cùng sức lao động của dân mình, thậm chí bọn Bắc Bộ
Phủ Hà Nội buôn bán và “xuất khấu” hăng trăm ngàn thanh niên nam nữ Việt ta đi
làm những công việc nặng nhọc ở Đài Loan, Nhật, Đại Hàn, Mã Lai vv. Rồi lại còn
tổ chức mai mối cô dâu để kiếm tiền làm đau khổ cho cả trăm nghìn cô
dâu Việt ở Đài Loan và Đại Hàn, sống không có hạnh phúc hay bị người ta dày vò
thân ngọc ngà và làm nhục nhân phẩm. Tệ hơn nữa, những loại trưởng
giả này, cướp đất của dân chúng, của các cơ sở tôn giáo, bán các mảnh đất dinh
thự của cha ông đã dày công bảo vệ và xây dựng cho Đất Nước, nay thì chúng bán
cho các tay tư bản, cho ngoại nhân hầu có tiền mà hoang phí, hay bỏ vào các nhà
băng lớn ở Thụy Sĩ, Lục Xâm Bảo, Mỹ, Pháp, Anh, Bỉ và Nhật v.v.. Chúng ta thấy
loại học đòi trưởng giả này sống trên nhung lụa, trong cách xài phí xa hoa bằng
tiền ăn cướp công qủy của Đất Nưóc, ăn chận bớt viện trợ, ăn tiền hối lộ, tham
nhũng, ăn tiền đút lót của các xí nghiệp ngoại quốc, ăn bẩn tiền của dân qua
chiêu bài đánh tư sản mại bản, đánh trăm thứ thuế trên đầu dân đen, thợ thuyền…
Những loại người đê hèn thiếu liêm sỉ, rẻ lương tri này không thiếu ở các quốc
gia Á Châu, Phi Châu, Các Nuớc Đông Âu Cộng Sản trước đây cũng như Nga và ở
Châu Mỹ La Tinh. Chúng Ta
biết như Stalin ở Nga, Causescu ở Lỗ Ma Ni ; Mao Trạch Đông, Giang Trạch
Dân, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo ở Trung
Quốc; cha con Kim Chính Nhật và Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng, Trường Chinh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Mai
Chí Thọ, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan
Văn Khải, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương
Tấn Sang, Nguyễn Minh Triết, Trương Thị Hoa,Lê Hồng Anh, Nguyễn Phú Trọng và
Tô Huy Rứa, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao
Văn Viên, Đặng Văn Quang, Nguyễn Cao Kỳ v.v., ở Việt Nam; Marcos ở Phi Luật Tân,
Suhasto ở Nam Duơng; Các cha con Sadam Husen ở Iraq; Mobutu ở Congo và Robert
Mugabe ở Zimbawe cùng Bosaka Châu Phi, Kadafi ở Lybie, Moubarack ở Ai Cập ;
Duvalier ở Haiti và Pinochet ở Chili. Hoặc mới đây một tờ báo Mỹ đá tố cáo Ôn
Gia Bảo cuả Trung Cộng có gia tài kếch xù lên đến hơn hai tỷ Mỹ Kim. Thật là những loại người “ăn bẩn” này thường bị dân
chúng khinh khi và chống đối, vì họ là tay sai, kẻ nô bộc của ngoại nhân dùng
trong chính sách “thực dân mới” của họ.
(còn tiếp)
III. NHŨNG LOẠI KIỂU CÁCH MẠNG
Chúng tôi thiết
nghĩ làm một việc phân tích điển hình học (typologique) của những cuộc cách mạng
là việc làm khó có thể chấm dứt được. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng việc làm
này hy vọng mang lại được chút hữu ích cho chúng ta. Song việc này chỉ có nghĩa
trong chiều hướng giúp chúng ta có phương tiện trong sự phân tích, hầu hiểu hơn
về điển tích này. Chúng ta rõ có rất nhiều tác giả, những giáo sư chuyên nghiên
cứu để phổ biến, và qua đó họ đã đề nghị đưa ra các điển tích học khác nhau.
Theo họ bắt đầu từ cái nhìn triết lý, cái nhìn thuộc vế pháp lý hay thuộc về xã
hội học (vues philosophiques, juridiques ou sociologiques). Chúng ta có thể
trích dẫn một trong những tác giả thời danh đã có công khảo cứu là tiến sĩ H.D.
Wendland (7). Ông ta phân biệt cho chúng ta thấy những kiểu loại như sau :
cuộc cách mạng nội bộ với ý nghĩa hẹp bên trong (la révolution au sens étroit),
đơn giản chỉ có thay đổi quyền hành chính trị ; còn cuộc cách mạng xã hội
(la révolution sociale), thì thật sự cuộc cách mạng này đưa vào những biến đổi,
canh tân các tầng lớp xã hội do các điều hợp lý cũng như nhu cầu khả thể là hiệu
lực, để rồi cũng là cuộc cách mạng hoàn hảo có thay đổi chung thể về xã hội. Ví
dụ ở đây chúng tôi không thể nào không nhắc đến những tiền nhân của chúng ta đã
làm một cuộc cách mạng văn học (có thể gọi là văn hóa) của nhóm « Tự Lực
Văn Đoàn ». Tuy là việc làm văn chương và văn học qua các tác phẩm phổ biến,
nhưng chúng ta đào sâu để nhận thức cái ý nghĩa sâu xa, thì đây chính là khởi động
một cuộc cách mạng xã hội, hầu thay đổi não trạng của quần chúng thời ấy về những
thành kiến và chấp nệ ở vào những thập niên 30-40, hầu theo kịp đà tiến văn
minh của các Nước Phưong Tây. Chúng tôi xin kính ngưỡng, xin chúng ta thắp một
nén hưong lòng cho nhà cách mạng xã hội Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, và nhóm Tự
Lực Văn Đoàn đã đem lại một sinh khí mới cho dân tộc ta thời ấy cũng như vẫn
còn vang vọng dư âm trong lòng người hôm nay.
Một điển tích học
khác được đề nghị và giới thiệu do giáo sư chính trị học, là Umberto Melotti
qua tác phẩm của ông là « Rivoluzion e Società, Cách Mạng và Xã Hội ».
Với tác phẩm bổ ích này, ông giúp chúng ta quan tâm đến những điểm khác nhau giữa
những cuộc cách mạng chính trị và những cuộc cách mạng xã hội. Theo ông nghĩ
thì những cuộc cách mạng vốn tại qua một cuộc chuyển nhượng (transfert) quyền
hành chính trị của một nhóm người (cũ) đến một nhóm người khác (mới); và cuộc
cách mạng thứ hai là xã hội, thì cuộc cách mạng này công kích vào ngay những cơ
cấu của xã hội đó, như những tệ nạn ung thối của xã hội do chính thể đương thời
gây nên. Hay thêm nữa, là giữa những cuộc cách mạng phổ quát được toàn dân hưởng
ứng (révolutions majeures), hay là những cuộc cách mạng nhỏ, thiếu được phổ
quát (révolution mineur). Theo ông nghĩ các cuộc cách mạng này tuy có các khác
biệt, song phải vay muợn đến các từ luật học. Để nhờ đó nó có ý nghĩa cho những
cuộc cách mạng phổ quát hơn, hầu thông qua một trạng thái pháp lý đến một trạng
thái pháp lý hóa khác. Còn các điều khác, theo ông nghĩ chỉ là hiệu qủa đơn giản
của sự kháng cự mà chúng ta gặp bởi những nguyên tắc mới trong điều áp dụng của
những cuộc cách mạng.
Cũng theo ông nghĩ,
khi đi vào trong những cuộc cách mạng tư sản (révolutions bourgoeises) và những
cuộc cách mạng vô sản (révolutions prolétariennes), thì cuộc cách mạng tư sản
nhắm tiêu diệt chế độ phong kiến cùng tư bản ; còn cuộc cách mạng vô sản,
đây là cuộc cách mạng được « ngụy biện và trá hình » của người cộng sản,
đã tạo bao nhiêu đau khổ cho con người khi cộng sản cướp được chánh quyền ở Nga
vào năm 1917 ; tại Trung
Hoa năm 1949 ; tại Việt Nam năm 1945 ở miền Bắc, cùng một
lúc vào năm 1975 ; còn ở Cu Ba vào năm 1959 ; tại Lào và Cam Bốt vào
năm 1975 v.v. Những tên tội đồ của những phương sách cách mạng này, từ Lénine,
Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân
Lai, Fidel Castro, Causescu, cha con Kim Chính Nhật và Kim Nhật Thành, Hồ Chí
Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Polpot v.v. đã gây ra vô vàn thảm cảnh đói
rách cho cả tỷ rưỡi người, cũng như hẳm hại diết chết cả trăm triệu người dân
lành vô tội. Cuối cùng, ông nghĩ là đi vào những cuộc cách mạng cấp tiến (révolutions
progessistes), và những cuộc cách mạng thóai hóa (révolutions régressives). Cuộc
cách mạng thóai hóa này là cụ thể của các nước có nhãn hiệu là cộng sản. Nhất
là Việt Nam ta hiện tai, với chế độ độc đảng của cộng sản Hà Nội luôn vênh váo
tự hào là « cách mạng tiên tiến », nhưng thực ra là « thùng rổng
kêu to »; phải nói đúng hơn họ chỉ giỏi lừa bịp, khủng bố, diết người, phá
hoại tài nguyên, chất xám của Đất Nước, và mần sáng tạo cùng sự phát triển của
con người. Nói đúng sự thật, các cuộc cách mạng của người cộng sản chỉ có sự
ngu dốt, nghèo đói, gian dối và hận thù là được người cộng sản triệt để dùng đến;
chớ xã hội không có thăng hóa chút nào. Bằng chứng cụ thề là người cộng sản Việt
Nam từ ông Hồ Chí Minh cướp được chánh quyền đến những cán bộ của ông là ông Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và phỉ quyền hiện tại là ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn Triết, Nguyễn Phú Trọng cùng
Nguyện Tấn Dũng v.v. và Bộ Tà Trị, cái ổ tham nhũng của mấy ông. Chính họ, Đảng
cộng sản và guồng máy công an trị và đảng trị đã tạo nên những cuộc cách mạng
thoái hóa này (xin chúng ta cùng độc giả xem các báo của Đảng Cộng và Nhà Nước
Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam, thì rõ chính họ đã tố cáo lẫn nhau ăn hối lộ, tham
nhũng ra sao : điển hình là nhũng vụ Năm Cam, Lã Thì Oanh, năm trước vào
ngày 14.10.2008-Vụ án PMU, là vụ xử án Thiếu Tướng Phạm Xuân Quắc và hai nhà
báo Nguyễn Việt Chiến báo Thanh Niên và Nguyễn Văn Hải báo Tuổi Trẻ, đã vạch
tên vạch mặt tố cáo sự tham nhũng, cướp tiền viện trợ của các Nước Bạn, để ăn
chơi, trác táng cho thỏa lòng dục. Họ là đảng viên cộng sản đó nhé, là nguời của
Hà Nội đào tạo đó. Đúng như lời Ông Bà mình nói « cháy nhà mới lòi mặt chuột ».
Tội ác và gian dối, lừa đảo với lương tâm khép kín của mình thì có thể, chớ dưới
ánh nắng mặt trời chiếu rọi, và « Mắt Trời Công Lý cùng Tâm Thiên Công
Minh » thì không ai có thể chạy thoát được con Mắt theo dõi của
Thiên Hoàng. Dù Bộ Tà Trị, Đảng có dấu tội ác như mèo dấu phân, thì chỉ một cơn
mưa, một ánh nắng mặt trời chiếu rọi thì sự thối tha của Đảng của các ông lớn
trong Bộ Tà Trị, trong Trung
Uơng Đảng phải phơi trần cho bàng dân thiên hạ rõ và tường tận.
Chúng ta thấy hiện
tình Đất Nước từ luân lý, đạo đức, phong tục, tập quán và văn hóa tốt đẹp của
cha ông đã bị người cộng sản Việt đảo lộn và làm thóai hóa xã hội, để rồi làm mất
đi nhân tính cũng như làm băng hoại bao nhiêu thế hệ con dânViệt. Các cuộc cách
mạng thoái hóa này do những người cộng sản Việt đã tạo ra, nên họ « đẻ
ra » một chế độ ung thối, mất đi quốc thể, mất đi liêm sỉ, mất đi sĩ khí,
mất đi nhân cách của người lãnh đạo từ thường tầng cơ sở đến hạ tầng cơ sở, tạo
nên một tình trạng vô trách nhiệm chung đối với dân tộc. Như vào ngày 13-15
tháng 10.2008 tại Úc Đại Lợi : Ôi mình đường đường là một vị Thủ Tướng một
quốc gia có hơn bốn ngàn năm văn hiến, có một qúa trình lịch sử lập Quốc và dựng
Nước oai hùng làm cả thiên hạ, thế giới đều khâm phục, thế mà ông Nguyễn Tấn
Dũng và Đảng Cộng của ông, vô liêm sỉ đên độ không một chút tự trọng, họ
đã làm nhục Quốc Thể, đó là các ông cứ chạy đôn chạy đáo hết Nước này đến Nước
nọ, chạy từ Đông sang Tây, đưa cái mặt lỳ lợm, chai đá ngã tay mà xin tiền Mỹ,
Pháp, Nhật, Liên Hiệp Âu Châu, đã thế lại còn lòn vào cửa hậu để bàn việc xin
ăn. Nhục ơi là nhục, nhục không thể tưởng được! Không có hình ảnh nào hèn hạ,
khiếp nhược hơn mà văn chương có thể diễn tả! Thế mà miệng các ông cứ bô bô
ngông cuồng tự hào đế quốc nào Đảng ta và chúng ta cũng đánh thắng. Nhưng lại
có một sự lạ, là Đảng và bản thân các ông không đánh thắng nỗi được đồng Dollar
và Euro mà phải uống cong luỡi, cúi mọp thân mình, chu miệng ra tỉ tê, năn nỉ để
cầu xin. Đi ra Nuớc ngoài thì làm kiếp ăn mày lòng từ thiện của thiên hạ, trong
khi đó ở trong Nước thì Đảng và Nhà Nước các ông lại đi cướp đất, ruộng vuờn của
dân lành, thừa thắng xông lên còn cướp thêm đất, cướp thêm nhà Thờ, cướp nhà
Chùa, cướp hết các cơ sở của Tôn
Giáo như trường hoc, bệnh viện, tu viện v.v. Khi người dân với lẽ công bằng và
công lý, với miếng cơm, manh áo và nguồn sống của mình : họ đòi lại đất,
ruộng vuờn, nhà ở, là sở hữu của mình, Chánh Phủ đã không chịu giao trả lại cho
hợp lẻ phải, lại còn xua công an mang súng đạn, lựu đạn cay, chó điên, bọn du côn,
du thực uy hiếp, đàn áp người dân hiền hòa không có vũ khí gì trong đôi tay
mình, ngoài những cây nến thắp sáng niềm tin và lời cầu nguyện với Đấng Tối
Cao. Điền hình rỏ ràng nhất là Vụ Đức Tổng Gíam Mục Giu Se Ngô Quang Kiệt giáo
phận Hà Nội đòi Nhà Nước phải hoán trả lại đất của Tòa Khâm Sứ, cũng như vụ đòi
lại đất của Giáo Xứ Thái Hà, để có thêm đất đai, có thêm không gian hầu xử dụng cho
các viêc thờ phượng và mục vụ tôn giáo cho giáo dân.
Chế độ cộng sản Việt tham
nhũng và hối lộ đã thấm vào tận xương tủy, máu huyết của Đảng, của tầng lớp cán
bô, công an, đảng viên, như lời khằng định của ông cựu Thủ Tuớng phỉ quyền Phan
Văn Khải: tuyên bô với bàng dân thiên hạ rằng : « tham nhũng, hội lộ
đã trở thành quốc nạn ». Đúng thế, Đảng đã bóc lột mồ hôi, xuơng máu của
dân làm ra. Sự bóc lột và tham nhũng đó hìển hiện rõ như ánh sáng mặt trời từ Bộ
Tà Trị của Hà Nội đến anh công an khu phố, do từ ông đại tướng cho đến anh bộ đội
gác cổng … Để rồi tạo nên một xã hội « nhiễu nhương, bất công, nghèo đói,
lạc hậu », và thực thế Đất Nước ta ngày nay được xem là những nước nghèo
đói và chậm phát triển nhất thế giới!
Qua những điều
chúng tôi vừa trình bày ở trên, thì chúng ta có cái phân tích đào sâu vào những
hiện tượng cách mạng trong thời kỳ cận đại và đương thời, hầu hy vọng có thể dẫn
chúng ta đến những « điển hinh » tương đối để hiểu hơn bản chất các
cuộc cách mạng xảy ra trong lòng các xã hội của thế giới ta sống. Song trong thực
tế còn có nhiều điều rất phức tạp hơn là những điều chúng ta vừa nêu ra qua hai
loại điển hình của những cuộc cách mạng, mà chúng ta trích dẫn ở phần trên của
họ.
IV. CẢNH HUỐNG XÃ HỘI THỜI TIỀN CÁCH MẠNG
Thường những cuộc
cách mạng làm chúng ta lưu tâm đến, đó là xuất phát do những nguyên nhân tồi tệ
của xã hội. Do vậy hoàn cảnh xã hội thời tiền cách mạng là những « then chốt »
cho chúng ta nhận định, và nó dính liền vào những điều kiện quốc nội ; hay
cuộc cách mạng bùng phát do các hiện tượng bị thống trị bởi ngoại bang, hay là
chế độ độc tài hà khắc băt bớ bỏ tù những người đối lập, vì dám lên tiếng bênh
vực cho lẻ phải, cho công bằng và công lý, hay nữa vạch trần các tội ác, tham
ô, hủ hoá của giai cấp cầm quyền. Ở đây chúng tôi xin phép mở ngoặc nói đến những
hiện tượng của các anh chị em sinh viên Sài Gòn-Hà Nội, đã tự nảy sinh sự xuống
đường chống lại Trung Cộng cướp Trường Sa
và Hoàng Sa của ta, và chống lại sự khiếp nhược cúi mặt của Đảng Cộng Sản Việt
Nam từ thời của ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho đến Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú
Trọng cùng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ Tà Trị thời nay, họ chỉ là một phường bán Nước,
bán Đất và Biển của cha ông ta có công tạo nên và giữ gìn, rồi để lại cho chúng
ta hôm nay một giang sơn gấm vóc. Thế mà chúng nó, một lũ hoàn toàn khiếp nhược,
cúi mặt, muối mặt chịu làm tay sai, nô bộc cho bọn Rợ Hán Bắc Kinh, sai gì làm
đó, bảo sao nghe vậy. Điển hình cụ thể tên nô bộc bán Đất, bán Biển, bán Nước,
là ông Phạm Văn Đồng ngang nhiên cúi mình ký một văn kiện nhượng cho lũ Rợ Hán
Bắc Kinh quần đảo màu mỡ Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Do đó các anh chị em
sinh viên lên tiếng là thế. Chúng tôi thật thán phục và ngưỡng phục những hành
dộng can đảm anh dũng của các anh chị em. Nhất là Anh Lê Chí Quang và Chị Phạm Thanh Nghiêm đã lên tiếng phản kháng cho
hành động bán Nước của nhửng tên Việt gian cộng sản này.Cũng thế, khi các sai lầm
của chế độ cùng các sai lệch không đúng như một xã hội lý tưởng mà họ đã vạch
ra qua bản Hiến Pháp ; cũng như không làm thỏa mãn những nguyện vọng của
người dân (tự do, nhân quyền, no cơm áo ấm, hạnh phúc, an thái), hay không đáp ứng
các khát vọng của các đảng phái, của các hội đoàn, của nghiệp đoàn v.v., thì chắc
chắn có một động lực khởi xuất, chắc chắn có một tạo lực ầm ỷ trong xã hội, hầu
trở nên một điều kiện, một nguyên tố xuất hiện những bộc phát cách mạng. Đây là
ly do và nguyên nhân người ta đi vào của thời tiền cách mạng. Thật vậy, chúng
ta phải có một tầm nhận thức của xã hội hiện thực. Nói một cách khác là hiện tuợng
ấy phải được ta thấu triệt cặn kẻ, để phát sinh nên phong trào hay những sinh động
cho cuộc cách mạng được bộc phát (chúng tôi đang hy vọng và đáng mừng vì đã có
những phong trao tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, đa đảng, tự do báo chí và
ngôn luận cùng tôn giáo : điển hình là khối 8406, và nóng hỏi nhất là
phong trào hiệp thông cầu nguyện được tỏa rộng từ trong Nước ra Hải Ngoại và
lan đến các Quốc Gia Bạn, các Giáo Hôị Bạn, tạo một sợi dây liên kết, hổ trợ
tinh thần cho công cuộc tranh đấu vì công lý và công bằng cho ngưòi dân của Đức
Tổng Gíám Mục Giu-se Ngô Quang Kiệt và giáo dân Giáo Xứ Thái Hà và Hà Nội đòi lại
đất của Tòa Khâm Sứ và Giáo Xứ Thái Hà đã bị Nhà Nước và Đảng Cộng cướp đoạt.
Xin hãy nhận nơi chúng tôi một sự cúi mình khâm phục những hành động cao cả của
Qúy Vị, vì tiền đồ của Đất Nước và vì sự sống của người dân.Cao ca thay sức mạnh
của niềm tin, sự kiên gan và bền bỹ tranh đấu cho một lý tưởng, cho một chính
nghĩa nhân tâm mà qúy vị đang chiến đấu cho lẻ phải và sự thật, cho công lý
cùng công bình, cho dân chủ và tự do cùng nhân quyền, cho ấm no và hạnh phúc
v.v., chúng tôi tin rằng tất sẽ có ngày qúy vị sẽ thắng được chế độ độc tài,
phi nhân, gian dối, lừa đảo, vô đạo đức vô luân lý, hận thù và trăm thứ tội ác
do phỉ quyền Hà Nội đã gây nên cho nguời dân lành bao cảnh lầm than, biết bao
đau thương, vô vàn cảnh đau khổ mà trời phải nhỏ lệ, đất phải thét
gào.
1. Do thế, những yếu tố
cùng động lực nội sinh là những yếu tố và trạng huống bên trong xã hội của một
xã hội, điều này không có nghĩa chỉ giới hạn vào các biên giới quốc gia, song
như chúng ta thấy hiện tượng các Nước Châu Mỹ La Tinh và
Phong Trào Cầu Nguyện Hiệp Thông với Giáo Xứ và Giáo Dân Thái Hà và với Đức Tổng
Giám Mục Giu-se Ngô Quang Kiệt cho công cuộc tranh đấu của Qúy Vị ấy, là đìển
hình cụ thể rõ ràng. Vì ở đó sự đoàn kết cùng một lòng đóng một vai trò quan trọng
vuợt qua các biên giới để tạo nên các cuộc cách mạng diễn tiếp. Nhất là, thời
nay, nhờ vào hệ thống đìện thư-email, hệ thống truyền hình và truyền thanh đưa
tin tức rât nhanh, bằng cách chuyển tin thời sự qua cái máy điện thoại di động.
Nhờ đó mọi diễn tiền của qúy vị nhất động nhất cử, hay sự đàn áp, khủng bố của
phỉ quyền Hà Nội đối với qúy vị chúng tôi biết ngay tức thì. Nhờ thế, thế gíới
biềt ngay, để ủng hộ qúy vị, để bênh vực, để tiếp tay với qúy vị cho công cuộc
tranh đấu trực diện của qúy vị với chế độ cộng sản Việt phi nhân, và phỉ quyền
Hà Nội độc ác, thối nát này sẽ sớm có ngày sụp đổ.
Ôn lại lích sử:
chúng ta đã thấy được những cuộc xuống đường đình công ồ ạt của các sinh viên
Âu Châu nhất là ở Pháp, đà làm cho chánh quyền ở các quốc gia này phải nhượng bộ
nhiều đòi hỏi hợp lý của họ. Rõ ràng hơn nữa là những cuộc khởi nghĩa của các
sinh viên Trung Quốc vào mùa xuân
1989, nhờ đó đã tạo nên những loạt khởi nghĩa của sinh viên cùng dân chúng tại
Đông Âu: như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bảo Gia Lợi, Liên Sô,
Nga, Lỗ Ma Ni và An Ba Ni. Ở Á Châu có Phi Luât Tân, Nam Dương, Miến Điện, rồi ở
Bắc Phi có Ai Cập, Tunisie, Lybie, Syrie. Qủa thật với lòng kiên trì, can dảm,
đoàn kềt, liên đới thì dù bất cứ một chánh quyền chuyên chế nào, một chế độ
hung ác, tàn bạo nào cũng phải sụp đổ. Lích Sử của nhân loại đã chứng minh minh
bạch như ánh nắng mặt trời : Đế Quốc La Mã,
Thổ Nhỉ Kỳ, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Liên Sô, rồi hung ác hơn hổ dữ như Tần Thủy
Hoàng, Néron, Hitler, Lénine, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Polpot…
nay họ đi đâu và về đâu…trong ánh sáng sự thật của Lịch Sử nhân loại. Như
ông bà ta để lại lời răn đe và khuyên nhủ cho con cháu cung cách sống với người
và với đời như sau: “trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ
trơ”.
2. Chúng ta biết những yếu
tố cùng động lực ngoại sinh là những cảnh huống thống trị bởi thực dân hay tân
chủ nghĩa thực dân. Do đó những cuộc khởi nghĩa, cách mạng, cốt ý là tranh đấu
chống lại thực dân áp bức, thống trị, để dành lấy lại chủ quyền quốc gia. Chúng
ta thường thấy được thiếp lập và tạo nên do ý chí quật khởi của người dân. Vì
thế những cuộc khởi nghĩa dành độc lập, đánh đuổi ngoại xâm, dành tự trị này,
đáng lưu ý sâu xa ở các quốc gia Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Giờ dây chúng ta có thể hồi tưởng lại những cuộc
dấy binh khởi nghĩa cùng cách mạng anh hùng của những Đấng Tiên Sinh trong qúa
trình lịch sử dựng Nước và giữ Nước của dân tộc Việt: như nhị vị Trưng-Triệu,
Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Tri Phương, Trương Công Định, Phan Đình Phùng, Hàm Nghi, Hoàng Hoa Thám, Duy Tân, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Nguyễn Thái Học cùng các chiến hữu Việt Nam Quốc Dân Đảng, Ngô Đinh Diệm, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hố Bá Cẩn, Lê Quốc Quân, Trần Văn Bá, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Điền Và Ngô Quang Kiệt, Hoà Thượng Thích Quảng Độ và Huyền Quang, Thượng Tọa
Thích Thiện Minh, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Linh
Mục Phan Văn Lợi, Nguyễn Hửu Giải, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn
Đình Huy, Võ Đại Tôn, Lê Thị
Công Nhân, Phạm Thanh Nghiêm, Lê Thị
Kim Thu, Lê Thanh Tùng, Lê Chí Quang, Nguyễn Văn Đài, Phạm Quế Dương, Trần Khải
Thanh Thủy, Lê Công Định, Điéu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Trần Văn Hữu Thức,
Bùi Thị Minh Hằng, Tạ Phòng Trần, Hùynh Thục Vi, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Phưọng
Uyên vv., cùng vô vàn các chiến sĩ Việt Nam anh hùng chống bọn Tàu, Mông Cồ,
Pháp, Nhật, đô hộ dân ta và chủ nghĩa ngoại xâm Marx-Lénine-Mao, và một loại tư
bản rừng rú, là ngoại lai do bọn tôi tớ Việt cộng từ Hồ Chí Minh cho dến Nông Đức
Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và phỉ quyền Nguyễn Tấn Dũng hôm nay du nhập vào làm cho
xã hôi Việt Nam cang ngày càng băng hoại, xuống dốc thê thảm. Xin thông cảm cho
chúng tôi không thể nhớ hết tên và kể ra chi tiết được, chỉ xin nêu lên một số
tên tuổi của các đấng đã tạo nên các mốc điểm lịch sử cho dân tộc chúng ta bằng
những ý thức tranh đấu cách mạng chống lại ngoại xâm Trung Hoa, Pháp, Nhật, Mỹ và Cộng Sản, và chống lại ngoại
nhân bằng hình thức xâm lấn quyền nội bộ hay muốn thống trị kính tế, và chiếm
đoạt tài nguyên, đất đai, biển cả của ta như bọn Rợ Hán Trung Cộng đã và đang có mộng thôn tính thêm Đất Nước
chúng ta do sự tiếp thêm tay của Đảng Việt Cộng từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng
và tập đoàn Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng chung lưng góp sức
cho chúng.
Chúng
ta đã rõ lịch sử đã chứng minh những hành động thô bạo và phản bạn của chánh
quyền Mỹ trong biến cố 1963 và 1975 tại Miền Nam Việt Nam chúng ta. Thế nên
không lạ gì có nhiều quốc gia trong khối Phi Liên Kết, các Nước Nghèo Đệ Tam,
và một số quốc gia ở Trung Đông không thích lối hay lật lòng vì kiểu “ngoại giao
cow-boy” của Tòa Nhà Trắng và Ngũ Giác Đài.
(còn tiếp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét