Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Cha Jacques Huberdeau Huấn: Vị thừa sai Canađa đến VN duy nhất còn sống


Quebec, Canada - Trong những ngày này, Anh em Dòng Chúa Cứu Thế Tỉnh Dòng Sainte-Anne-de-Beaupré, Tỉnh Dòng Việt Nam, Anh em cựu đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, thân nhân, cùng những người khác đang hướng tới cha Jacques Huberdeau Huấn để cầu nguyện cho ngài.
Tuần vừa rồi, nhịp tim của ngài không ổn định nên ngài bị choáng và té trong phòng của ngài. Bây giờ ngài đang được điều trị trong nhà thương l'Enfant-Jésus, tại thành phố Québec. Chiều hôm qua, cùng với cha Jean-Paul Labonté, phó bề trên Cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Sainte-Anne-de-Beaupré, tôi vào bệnh viện thăm ngài. Cho dù sức khỏe của ngài xuống nhiều so với vài tuần trước, đi lại khó khăn, nhưng ngài vẫn tỉnh táo, vui vẻ và lạc quan như ngày nào.
Khi thấy chúng tôi đến thăm, ngài rất vui mừng và cảm ơn rối rít. Ngài là một trong những người được hầu hết Anh em trong Dòng tôn trọng và quý mến bởi sự nhiệt thành và đơn sơ của ngài.
Ngày 30 tháng 12 tới đây, ngài sẽ bước sang tuổi 96. Nhưng ngài nói với tôi : "theo tuổi Việt Nam thì tôi sắp 97 tuổi". Năm nay ngài mừng 75 năm làm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 70 năm linh mục. Suốt cuộc đời của ngài, ngài dành nhiều thời gian và sức lực cho công cuộc truyền giáo.

Cha Jacques Huberdeau khấn Dòng ngày 15 tháng 08 năm 1937. Sau đó một năm, ngài đi truyền giáo ở Việt Nam cho đến năm 1964. Trong vòng 26 năm thực thi sứ vụ thừa sai ở Việt Nam, ngài chỉ có một lần duy nhất về thăm gia đình của ngài ở Montréal vào năm 1955, thời gian hai tuần.
Khi sang Việt Nam, ngài học triết học và thần học cùng lớp với cha Henri Bạch văn Lộc (1911 - 1997), cha Giuse Vũ ngọc Bích (1914 - 2004), cha Micae Nguyễn đình Lành (1915 - 2003), cha Giuse Trần Hữu Thanh (1915 - 2007), cha Micae Nguyễn quang Toán (1916 - 2003), cha Irénée Marquis (1916 - 1970) và cha Roland Dostie (1917 -1948).
Cha Jacques Huberdeau khấn vĩnh viễn ngày 15 tháng 08 năm 1940 và lãnh sứ vụ linh mục ngày 06 tháng 06 năm 1942 tại Việt Nam. Trong 26 năm ở Việt Nam, phần lới thời gian của ngài là lo về đào tạo đệ tử, do vậy mà ngài có tên Việt Nam là Huấn. Đến bây giờ ngài vẫn nhớ những Anh em cùng thời với ngài, nhớ rất rõ những nơi ngài đã từng ở và đến, đặc biệt là Nhà Vũng Tàu (Nhà cũ) nơi ngài sáng lập. Khi nhắc về Nhà Vũng Tàu, ngài nhớ đến Cha Louis Nguyễn văn Qui.
Năm 1964, khi Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam từng bước vững chãi và dần dần tự lập được, cũng như một số các cha các thầy thuộc Tỉnh Sainte-Anne-de-Beaupré khác, cha Huberdeau trở về lại Canada (Ngài nói rõ với tôi là năm 1963 cũng có một cha về lại Canada, nên nhiều Anh em hiểu nhầm về ngài với cha đó). Sau hai năm, tức là năm 1966, ngài đi truyền giáo ở Uruguay cho đến năm 1985. Sau gần 20 năm truyền giáo ở Uruguay, ngài trở về Canada. Năm 1985, vừa trở về lại Canada được 6 ngày từ Uruguay thì ngài lại đi truyền giáo ở Haïti cho đến năm 2001. Như vậy, cho đến nay, 75 năm làm tu sĩ DCCT thì ngài có 62 năm đi truyền giáo.
Chắc hẳn quý Cha quý Thầy và ngay cả những giáo dân Việt Nam nào đã có dịp tiếp xúc với Cha Huberdeau thì thấy nơi ngài sự đơn sơ và luôn vui vẻ.  Tính đơn sơ này không chỉ có nghĩa là "nhân bản", mà hơn nữa, là sự đơn sơ của "chất tu sĩ".
Trong đời tu, ngài luôn trung thành với các lời khấn và đời sống cộng đoàn một cách đơn sơ và thoải mái. Đặc biệt, ngài sống đức nghèo khó một cách triệt để. Cách đây vài tuần, tôi và ngài cùng dùng bữa với nhau. Khi ngài ăn một món tráng miệng, ngài nói với tôi là đừng ăn món này. Tôi hỏi ngài món gì vậy, ngài nói là cơm lạnh "riz froid". Ngài nói là không ngon lành gì hết. Tôi nói với ngài là đừng ăn nữa, bỏ đi. Ngài nói với tôi : " Tôi ăn những gì người ta cho tôi ăn " (Je mange ce qu'on me donne) và ngài ăn hết món đó một cách vui vẻ.
Nghèo khó đối với ngài không chỉ là không giữ gì cho riêng mình, mà sẵn sàng cho đi tất cả, kể cả sức lực, thời gian, khả năng... và đón nhận tất cả như những món quà của Chúa ban. Ngài luôn vui vẻ, hòa đồng và nhã nhặn với tất cả mọi người. Bây giờ ngài vẫn viết thư và gửi email cho những ai giữ liên lạc với ngài.
Chiều hôm qua, khi vào thăm ngài, tôi nói với ngài là tất cả Anh em Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đang hướng về cha và cầu nguyện cho cha. Ngài la lên : " Thật à ! Tôi hạnh phúc quá ! Cảm ơn anh em. Cảm ơn các bạn ". Tôi hỏi ngài là có nhớ Việt Nam nữa không. Ngài trả lời : " Nhớ nhiều, vì tôi khấn trọn, lãnh sứ vụ phó tế và lãnh sứ vụ linh mục ở Việt Nam ". Tôi hỏi tiếp, thế cha có muốn sang thăm Anh em bên Việt Nam một lần nữa không, thì ngài trả lời : " Muốn lắm, nhưng mà đi không được nữa, có lẽ cho đến chết không đi được nữa ! ".
Năm 2009, khi tôi mới sang Canada được mấy tháng thì cha Huberdeau trao cho tối tất cả những hình ảnh của ngài chụp với những Anh em Việt Nam, trong đó có một tấm chụp năm 1955. Trong ảnh, có 11 Anh em Canada và 9 Anh em Việt Nam (cha Khâm, cha Hưng, cha Tuyên, cha Kiêm, cha Lành, cha Phúc, cha Qui, cha Lượng và Nguyễn ngọc Lan) cùng với khoảng 140 em đệ tử. Cha Huberdeau nói, đây là hình ảnh đẹp nhất từ Việt Nam mà ngài đang có. Ngài giữ mãi kỷ niệm đẹp này.
Khi vào nhà thương thăm ngài, tôi hỏi ngài có buồn không thì ngài vừa cười vừa nói : không có gì phải buồn cả, tôi có việc để làm luôn luôn. Rồi ngài chỉ quyển sách Thánh, sách Kinh phụng vụ và tràng chuỗi mân côi ở trên bàn của ngài. Lúc đó, cha phó bề trên báo với ngài là cha Claude vừa mới qua đời tối thứ bảy. Cha Huberdeau nói : chết vào vọng lễ Chúa Ki-tô Vua, thật tuyệt ! Một cái chết lành (belle mort) !
Tâm hồn ngài luôn luôn thanh thản và sẵn sàng đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào hay điều kiện nào thì ngài vẫn vui vẻ và đơn sơ phó thác. Ngài thường chia sẻ với tôi về Thầy Marcel Văn. Ngài rất quý mến và ngưỡng mộ cách sống của Thầy Marcel Văn. Ngài nói rằng : " Marcel Văn sau tôi 12 tuổi, nhưng Thầy rất tốt, rất đơn sơ và thánh thiện. Marcel Văn là người bạn tốt của tôi ". Chắc vậy mà ngài luôn hướng về Thầy Marcel Văn cả tình cảm lẫn cách sống.
Khi chúng tôi chào ngài để ra về, ngài đứng dậy và xin chúng tôi chúc lành cho ngài. Rồi ngài tự đi bằng xe đẩy và tiễn chúng tôi ra tận cổng nhà thương. Sau đó, có một nữ y tá theo ngài để giúp ngài trở về phòng của ngài.

Sainte-Anne-de-Beaupré, ngày 27. 11.2012
Lm. Antôn Trần Quốc Toản, DCCT
Nguồn: VRNs

0 nhận xét:

Đăng nhận xét