LTCGVN (02.09.2013)
SỰ THẬT VỀ CỜ VÀNG CẦN ĐƯỢC TÔN TRỌNG
Ngày 27.06.2009, lúc 12 giờ, tại Sảnh đường Công Nghị, trong dinh Tông Tòa, Vatican, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã gặp gỡ phái đoàn Giám Mục Việt Nam nhân dịp các Ngài đến Tòa Thánh để thực hiện Ad Limina. Đức Thánh Cha nhắc gởi chúng ta : « các giáo dân Công Giáo cần chứng tỏ - qua cuộc sống dựa trên bác ái, lương thiện, yêu chuộng công ích, - rằng một tín hữu Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt ».
Đồng thời, chúng ta được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1, 26-27). Người là Đấng toàụn năng, với Lý trí siêu việt, sau khi hoàn tất tiến trình tác thành vũ trụ và, cuối cùng, đã tạo dựng nên nhân loại để làm bá chủ muôn thú vật và cả mặt đất. Do đó, Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp (St 1, 31). Thiên Chúa hoàn toàn Tự do trao ban sự hiện hữu và sự sống cho Con Người. Vì lý do được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi trở thành dấu chỉ hữu hình và dụng cụ hữu hiệu để tỏ lộ hành vi tặng không của Thiên Chúa khi đặt vào vườn để canh tác và trông coi các công trình sáng tạo khác (x. số 26 Tóm lược Học thuyết xã hội Công Giáo). Vì giống Thiên Chúa, Con Người có Lý trí và sự Tự do. Do đó, mỗi người phải chịu trách nhiệm hành động của mình.
Sau khi, tổ tiên chúng ta đã trái lệnh Thiên Chúa để bị mất nghĩa với Đấng đã tạo nên mình (xem Sáng Thế Ký), Đức Chúa Trời lại ban tặng cho Con Người Đức Giêsu nhập thế, mang xác phàm như chúng ta, chịu đóng đinh và chết trên cây Thánh Giá, được táng xác và Sống Lại để Cứu Chuộc chúng ta (xem Kinh Tin Kính). Chúa Giêsu là một chứng minh Con Người có Lý trí và Tự do như Thiên Chúa.
Là công dân nước Việt, một người Công Giáo phải yêu thương Tổ quốc Việt Nam, được tượng trưng bởi Quốc kỳ ghi khắc trong khối óc và con tim mình. Nhờ Lý trí và Tự do do Thiên Chúa ban để giống Người, chúng ta xác tín Sự Thật về Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để yêu cầu mọi người tôn trọng.
I.- CỜ VÀNG XUẤT HIỆN TRONG CHIẾN THẮNG.
Năm 34 (Giáp ngọ), vua Quang vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao chỉ (thời Bắc thuộc thứ Nhất, Nam Việt, tức Việt Nam ngày nay, bị cải tên là Giao chỉ bộ). Ông là kẻ bạo ngược với chính trị tàn ác, năm 40, giết Thi Sách. Bà Trưng Trắc, vợ ông Thi Sách, cùng em là Trưng Nhị tuyển quân, dùng ‘Đầu voi phất Cờ Vàng’ khởi nghĩa đánh Tô Định chạy về quận Nam hải. Dân quân các quận Cửu chân, Nhật nam và Hợp phố nổi dậy theo Hai Bà Trưng. Sau khi chiến thắng được 65 thành trì, bà Trưng tự xưng Vua, đóng đô ở Mê linh.
Năm 42, vua Quang vũ sai Mã Viện đem đại quân đánh Trưng Vương. Thất trận, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông Hát giang (chỗ tiếng sông Đáy vào sông Hồng hà) để tự tử, ngày mùng 6 tháng 2 năm Quí mão (43). Tuy Hai Bà Trưng trị vì chỉ 3 năm, nhưng tài trí ấy đã làm nên nghĩa lớn khiến vua quan nhà Hán lo sợ, đủ để lưu danh muôn đời.
II.- SỰ LƯU TRUYỀN TINH THẦN DÂN TỘC CỦA CỜ VÀNG.
Trong sách ‘Lịch sử Việt Nam’ xuất bản năm 1955, tác giả Đào Duy Anh viết « Ở các thời Đinh, Lê, Lý, Trần…, cờ chỉ là tấm vải màu vàng trên đó có thêu tên của triều đại đang cai trị ». Như vậy, màu vàng là màu chủ đạo trong đế kỳ của các triều đại trên Quê Hương.
A. Tại sao màu Vàng là màu trong những lá cờ xuyên suốt lịch sử dân tộc?
1/ Người Việt là dân tộc Á châu có da màu vàng, nên nền lá cờ của mình thể hiện màu da người Việt. Sự trùng hợp màu giữa ‘da’ bộ phận bên ngoài bao bọc cơ thể và ‘nền’ lá cờ cho thấy từ xa xưa người Việt đã có ý thức về chủng tộc và màu da Dân tộc.
2/ Theo vũ trụ quan người Việt, màu vàng còn thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Do đó, các vua nước ta thường xưng là Hoàng đế và mặc áo có tên hoàng bào.
3/ Màu vàng cờ Hai Bà Trưng đơn giản, theo Dịch Lý, mang tính nuôi dưỡng, hổ trợ, căn bản của tình thương người cùng chung một nước:
‘Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng’.
B. Lịch sử Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Long Tinh Kỳ (1802-1885) là lá cờ có từ thời vua Gia Long khi mới thống nhất sơn hà và lên ngôi Hoàng đế, được gọi là Đế kỳ (cờ của Vua). Cờ có : - Nền vàng biểu hiệu hoàng đế và sắc tộc dân Việt ;
- Chấm đỏ , giữa cờ, biểu hiệu phương Nam ;
- Tua xanh biểu hiệu đại dương, vẩy rồng.
{Long là Rồng, biểu tượng cho Vua, có màu vàng; Tua xanh dương chung quanh tượng trưng cho Tiên và cũng là màu đại dương, nơi Rồng cư ngụ ; Tinh có nghĩa là ngôi sao trên trời ; Màu đỏ biểu tượng lòng nhiệt thành ; Kỳ là cờ}. Đế kỳ khác Quốc kỳ ở chỗ : vì là cờ của Vua, nên Vua ở đâu thì đế kỳ treo hay dựng nơi đó.
Năm 1863, sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản được vua Tự Đức sai đi sứ sang Pháp thấy Pháp chào quốc kỳ Tam Tài trong các buổi lễ. Nên khi trở về, ông trình Vua để dùng Long Tinh Kỳ làm ‘Quốc kỳ’ và được lưu truyền đến nay. Quốc kỳ là biểu tượng của quốc gia, treo tại các nơi có cơ quan công quyền chứ không chỉ ở chốn hoàng triều.
Ngày 01.02.1889, Hoàng tử Bửu Lân, con vua Dục Đức, lên ngôi Vua chọn hiệu Thành Thái. Ông là người vua thông minh, hiếu học, tuổi còn trẻ đã sớm có ý chí tự cường Dân tộc và có tinh thần canh tân đất nước. Vua thích tìm cơ hội sống gần dân, thường ra khỏi hoàng thành giả dạng đi chơi hay săn bắn để tiếp xúc với các nhà chí sĩ cách mạng. Cảm thông tâm trạng bất mãn của nhân dân, Vua Thành Thái đã không những không thỏa mãn các đòi hỏi của chính quyền bảo hộ, mà còn trọng dụng nhiều nhân tài thanh liêm và đức độ như các ông Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước. Năm 1890, vua ban chiếu thay đổi Quốc kỳ chữ Hán bằng Quốc kỳ mới: Lá cờ nền Vàng với Ba Sọc Đỏ được hình thành để được dùng làm Quốc kỳ.
Ba Sọc Đỏ bằng nhau biểu hiệu Bắc Trung Nam bất khả phân hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất lãnh thổ Việt mà sự kiến tạo lá Quốc Kỳ này có nhiều ý nghĩa vô cùng quan trọng:
- Thể hiện ý chí quật cường tranh đấu để bác bỏ hiệp ước Quý Mùi, ‘chia để trị’ của thực dân Pháp, đã tao ra tình trạng Nam kỳ thuộc địa, Trung và Bắc kỳ bảo hộ ;
- Xác quyết sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, ba kỳ đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền màu Vàng của dân tộc Việt Nam ;
- Nêu cao tinh thần ‘quốc gia dân tộc’, bằng đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu.
Chính vì các ý nghĩa đó mà Cờ Vàng được mệnh danh là cờ ‘Quốc gia’. Như vậy, từ ngữ ‘quốc gia’ đã có từ cuối thế kỷ 19, đối nghịch với ‘thuộc địa’, chớ không hẳn chỉ có vào bán thế kỷ 20 khi từ ngữ ‘cộng sản’ xuất hiện.
Cờ này đã tồn tại suốt triều Vua Thành Thái. Năm 1907, vì tánh khí quật cường, không chịu làm một Vua bù nhìn và không nghe theo các đề nghị của Pháp, Vua Thành Thái bị Pháp cho là ‘điên’ để truất phế và quản thúc ông ở Vũng tàu. Con Vua là Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy hiệu là Duy Tân. Như Vua cha, Vua Duy Tân tuy còn nhỏ tuổi mà đã tỏ ra là một người ái quốc can đảm. Vì thế, lá cờ Quốc gia vẫn tồn tại cho tới khi chính Vua Duy Tân cũng bị bắt vì tội tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp rồi bị đày sang đảo Réunion ở Phi Châu cùng với Vua cha vào năm 1916.
Vua Khải Định (1916-1925), rồi Thủ tướng Trần Trọng Kim (năm 1945) và Quốc trưởng Bảo Đại đã thêm bớt vào Cờ Vàng và, ngày 02.06.1948, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lại cờ Vàng Ba Sọc Đỏ làm Quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Từ đó, Quốc kỳ này đã tung bay khắp mọi miền đất nước từ Ải Nam quan đến Mũi Cà mau.
Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản chiếm miền Bắc, tiếp thu Hà Nội ngày 10.10.1954 để cờ Đỏ sao vàng trở thành cờ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cờ Vàng tiếp tục tung bay khắp miền Nam, từ cầu Hiền lương đến Mũi Cà mau, với tên gọi Việt Nam Cộng hòa từ ngày 26.10.1955. Năm 1957, khi Quốc hội thảo luận để biểu quyết Quốc kỳ mới, Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhơn danh Quân đội, gởi Thỉnh nguyện thư yêu cầu giữ nguyên Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ làm Quốc kỳ vì các thế hệ chiến sĩ anh dũng bảo vệ và đã hy sinh vì Tổ quốc, dưới Quốc kỳ này. Thỉnh nguyện thư đã được các Dân biểu chấp thuận và cuộc thảo luận được đình chỉ. Ngày 30.04.1975, cờ này không được treo nữa một cách đương nhiên và hợp lý.
C. Cảm nghiệm cá nhân nơi Cờ Vàng.
Vừa hơn 5 tuổi, ôm cặp đến trường tiểu học công lập, mỗi sáng thứ hai, chúng tôi dự lễ Chào Quốc kỳ và, từ đó, dần dần sự ngưỡng mộ Cờ Vàng triển nở trong tâm trí kéo theo lòng ái quốc, nhất là từ khi ông Ngô Đình Diệm chấp chính 07.07.1954 và sự buồn thãm do Hiệp định Genève ngày 20.07.1954 do thực dân Pháp và cộng sản Việt ký kết để chia đôi lãnh thổ Việt Nam. Vào cấp trung học tại trường Công Giáo Lasan Taberd, tuy là tư thục, nhưng lễ Chào Quốc kỳ diễn ra từng ngày, xứng danh ‘tín hữu Công Giáo tốt cũng là công dân tốt’.
Khi khoát áo chiến binh Quân đội Việt Nam Cộng hòa, từ đài chỉ huy chiến hạm Hải quân, Cờ Vàng lướt gió cắm nơi mũi tàu luôn được chúng tôi nhìn ngắm. Ngoài ra, bao lần, chúng tôi đã cúi mình trước linh cửu các chiến hữu và thân hữu hy sinh vì Tổ quốc được phủ Cờ Vàng. Trong cuộc chiến gọi là để thống nhất Đất Nước do cộng sản xâm lược gây ra, khoảng 250 ngàn linh cửu các tử sĩ miền Nam được phủ Quốc kỳ.
III. TÍNH HỢP LÝ CỦA CỜ VÀNG.
Ngày 30.04.1975, nơi hải ngoại, Người Việt Tự do trên đường tỵ nạn đã đồng tâm tiếp tục giữ Cờ Vàng như là biểu trưng cho tập thể tại các quốc gia tạm dung. Tuy nhiên, có những người Việt khác chỉ vì không quan tâm đến một biểu tượng, nhưng cũng có vị nghĩ xa hơn về một sự hợp tác với nhà nước Việt Nam hay sẽ về Việt Nam, nên không muốn Cờ Vàng hiện diện nơi mình có mặt. Do đó, người ta biện luận : Cờ Vàng thuộc Việt Nam Cộng hòa, nay Quốc hiệu không còn thì cũng dẹp đi Cờ Vàng, nhưng họ đâu chấp nhận do họ không biết hay cố tình phủ nhận lịch sử Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã xuất hiện từ năm 1890, thời Vua Thành Thái.
Cám ơn sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi, đã biểu lộ tình yêu nước bằng học hỏi và lên tiếng về những Sự thật Lịch sử : Ngày 14.10.2012, khoảng 10 công an bắt và nhốt cô trong khách sạn. Chúng gạt cha mẹ và bà nội cô là không có bắt giữ, làm gia đình đau khổ và rất lo lắng cho sự an nguy của cô. Ngày 22.10.2012, chúng mới thú thật. Ngày 16.05.2013, Toà án Long an tuyên án 6 năm tù đối với Uyên 6 năm tù vì đã lấy máu pha nước viết trên vải ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’, bị cho là ‘có nội dung không hay về Trung quốc’, và ‘Đảng cộng sản chết đi’, bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’. Ngoài ra, cô ‘còn sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu vàng và đỏ tô thành Cờ Vàng; phía dưới lá cờ cô ghi chú thích: ‘1890-1920: Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định; 1948-1975: Cờ Quốc gia Việt Nam’ (trang 03 Cáo trạng). Cô bị kết án về tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', quy định tại điểm c khoản 1 Điều 88 Bộ luật hình sự.
Trong phần bào chữa cho cô, Luật sư Hà Huy Sơn trích ‘Bách khoa toàn thư mở Wikipedia’: « Năm 1890, lá cờ vàng ba sọc đỏ được tạo ra và sử dụng lần đầu tiên như là lá cờ quốc gia (Đại Nam Quốc kỳ 1890-1920). Theo lịch sử thì đây là lá cờ của tổ tiên mà sau này Nhà nước Việt Nam Cộng hòa dùng lại và cũng như tên ‘Việt Nam’ là do tổ tiên để lại chứ không phải là biểu tượng của thế lực phản động nào. Phương Uyên không làm ra, không xuyên tạc, không phỉ báng chính quyền nhân dân vì đây là sự thật lịch sử có trước cả Nhà nước CHXHCN Việt Nam (sinh ra năm 1976). Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật nào cấm vẽ, dán cờ vàng ba sọc đỏ tại nơi công cộng ». Phương Uyên cất tiếng trước Tòa: « Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm. » và yêu cầu : « Việc tôi làm thì tôi chịu xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn ».
Ngày 16.08.2013, tại phiên Tòa phúc thẩm, bạn trẻ Phương Uyên, tự biện hộ, đã nói với Hội đồng Xét xử ‘yêu cầu xử đúng người đúng tội’ : những hành động chống đảng cộng sản quy định nơi điều 258 Bộ luật hình sự chứ không phải điều 88 như đã tuyên xử. Hội đồng Xét xử chới với vì Kiểm sát viên lúng túng đòi xử theo Điều 4 Hiến pháp… Kết quả, Phương Uyên bị 3 năm tù hưởng án treo, chịu 52 tháng thử thách và được trả tự do tại tòa. Công lý cộng sản đầy bất công và bất ngờ, chúng ta ước mong những năm tháng tới, họ không buộc tội oan Phương Uyên.
Có những người vẫn ‘dị ứng’ với Cờ Vàng nên nại lý do là cờ này hết được Quốc tế công nhận. Là người có Lý trí và Tự do, chúng tôi từ chối sự cưởng bách bởi bạo quyền cộng sản lẫn các chính phủ hợp thành các tổ chức quốc tế, những ô hợp các quốc gia với quyền lợi khác nhau và đầy mâu thuẩn. Xin mời suy luận. Ngày 01.11.1963, được Tổng thống Kennedy cho phép, tên Henry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa kỳ tại Sài gòn đã thuê kẻ giết ông Ngô Đình Diệm, Tổng thống dân cử. Ngày nay, tại Ai cập, Tổng thống Mohamed Morsi bị lật đỗ và còn sống, Hoa kỳ đe dọa sẽ cắt viện trợ chính phủ mới. Ngày 30.04.1975, cuộc cướp chính quyền xảy ra tại Sài gòn và đã được các chính phủ thế giới công nhận. Hiện tại, chúng ta đang nhìn thấy sự phân hóa của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trước nội chiến Syria và nhà độc tài Bashar al-Assad.
Nhân dịp Đại hội các Cộng đoàn Công Giáo Âu châu chuẩn bị Hội ngộ Niềm Tin Rôma 2003 được tổ chức tại Lộ đức (Pháp) từ ngày 02 đến 04.08.2002, một sự từ chối Cờ Vàng đã làm nực cười nơi nhiều tín hữu tham dự. Trưa đó, trên bàn cơm trưa phái đoàn Paris, đa số những thành viên đồng ý, bây giờ, tuy cờ này không là Quốc kỳ, nhưng là cờ tượng trưng cho Người Việt Tự do Hải ngoại. Ngoài ra, trong dịp này, một Linh mục, gốc Giáo phận Bùi chu vừa thụ phong tại Pháp, cho chúng tôi biết nhiều Linh mục đã từ chối lời mời tham dự Thánh Lễ Phong chức với lý do Cha là ‘linh mục chui’ do không có phép nhà nước. Chúng tôi ngạc nhiên ‘tột độ’ vì có những Cha không biết điều kiện ắt có và đủ để nhận Bí tích Truyền Chức Thánh chỉ là phép đến từ Giáo quyền.
Ngày 02.08.2013, sau Thánh Lễ Kính Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam để khai mạc Đại Hội Hành Hương Lộ Đức người Công Giáo Việt Nam tại Pháp từ 02 đến 04.08.2013, kỷ niệm 25 năm tuyên phong Hiển Thánh cho 117 Á Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã diễn ra phiên chụp hình lưu niệm, nhiều tín hữu vui vẽ trưng Cờ Vàng, đôi ba người không biết Sự thật về Cờ Vàng nên phản đối. Một Sự thật Lịch sữ Công Giáo mà mọi người nên biết là trước khi được tuyên phong Hiển Thánh, 117 Á Thánh Tử Đạo đã là Bổn Mạng các quân nhân Công Giáo Việt Nam.
Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum có kể : Một lần Ngài đi nước ngoài. Khi đến cơ quan nhà nước nhận hộ chiếu, người ta dặn dò: ‘Ông đi nước ngoài nhớ đừng chụp hình với lá cờ vàng ba sọc đỏ, nếu không là toi đời ông!’.
Ngài đáp ngay: ‘Vậy tôi trả hộ chiếu lại cho các ông, tôi không đi nữa’. Họ ngạc nhiên hỏi Đức Cha : ‘Sao vậy?’ Ngài cười: ‘Chứ nếu đi nước ngoài mà toi đời thì đi làm gì?’.
Rồi ngài nói với các ông ấy: ‘Này nhé, tôi vào nhà ông, thấy ông để tượng Hồ chí Minh với lá cờ đỏ, tôi có bảo ông đem đặt chỗ khác không? Đến nhà người ta ai làm thế. Ở nước ngoài, nơi tôi đến có lá cờ vàng, chẳng lẽ tôi bảo họ đem đi chỗ khác cho tôi ngồi và chụp hình à?’
Ngài lý luận sắc bén: ‘Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, vậy các ông có ghét Tàu và Tây lắm không? Tôi thấy mấy ông lãnh đạo vẫn đứng chào cờ Trung quốc, chào cờ Pháp, Mỹ đó thôi. Vậy tại sao lá cờ vàng của anh em người Việt mình mà các ông căm ghét đến thế?’
‘Còn nữa, hàng năm chúng ta đón bao nhiêu Việt kiều, nhận bao nhiêu tiền họ gửi về, sao lại phải lúc nào cũng căm ghét cờ của họ?’
Đức Cha tâm sự, nghe rất xúc động: ‘Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Nam. Gia đình tôi sống được và tôi lớn lên, ăn học là dưới lá cờ vàng. Nếu các ông di cư năm ấy thì các ông cũng thế thôi’. Nghe những lời vô cùng hợp lý như thế, chắc họ bất ngờ và ngượng ngùng lắm nên cuối cùng họ bảo: ‘Thôi ông cứ đi…’.
Hà Minh Thảo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét