LTCGVN (19.08.2013)
Sài Gòn – Tuần thứ 19 (tuần lễ từ 12/8 đến 16/8/2013), Văn phòng nhận được hồ sơ của Dân oan các Tỉnh, Thành Tây Ninh, Sài Gòn và Bình Phước, nhưng nhiều nhất là Tây Ninh.
1. Tây Ninh:
a) Bà Lý Thị Nhương, ở Trảng Bàng: Bà đòi lại đất bị xã chiếm từ năm 1976. Hồ sơ có văn bản của Tỉnh đã giải quyết 3 lần cho Bà tổng cộng 18.377 m2 đất/ tổng diện tích 30.000 m2 xã lấy vào năm 1976. Đã hỗ trợ Bà 2 triệu (2012), hỗ trợ con Bà 300.000 đ/ tháng kể từ tháng 6/2011. VP sẽ trực tiếp trao đổi điện thoại với Bà.
b) Bà Mai Thị Tốt, ở Dương Minh Châu: Hồ sơ Bà cung cấp có 6 bộ hồ sơ (Đơn tố cáo) có nơi gởi. Hồ sơ có xác định sai phạm của Ông Phan Văn Lành- Đảng viên- Đảng Bộ xã Suối Đá, trong thời gian chịu trách nhiệm giải quyết Khiếu nại, đã “ém đơn” Khiếu nại của Bà từ 24/1/1996 đến 15/8/2001. Từ đó, UB cấp Giấy CN QSD đất – đang tranh chấp- cho các hộ dân, trên đất của Bà. Đồng thời, cách trả lời của UB Tỉnh đối với trường hợp của Bà là không phù hợp, khi cho rằng “UB Huyện đã cấp cho Bà 750 m2 đất là có tình, có lý”, trong khi Bà bị mất36.000 m2 đất đã mua và sử dụng từ 1969. Đề nghị Bà cung cấp các Bản án Tòa xử, để có căn cứ hướng dẫn. Đối với diện tích đất chưa được cấp Giấy CN QSD đất cho các hộ dân, VP sẽ trao đổi trực tiếp với Bà.
c) Một số hộ dân ở Tân Châu:
1. Ông Vũ Xuân Kính (chồng Bà Hoa): Ông yêu cầu “UB Tỉnh điều tra, rà soát lại phần đất khu vực Suối Lạng, diện tích 2,6 ha bị thu”. Đề nghị Ông bổ sung tài liệu, hồ sơ sử dụng đất và tài liệu giải quyết của UB, để VP có căn cứ hướng dẫn.
2. Ông Nhâm Văn Thục: Ông đòi 9,5 ha đất bị lấy trên 20 năm. Ông có 5 con trai đều tham gia NVQS, có 1 thương binh 4/4 và 1 ra quân năm 2002 về đi bán vé số sống qua ngày… Hồ sơ có Biên Bản đối thoại ngày 21/12/2012. Không rõ đến nay có giải quyết gì khác? Theo hồ sơ, Tỉnh đã giải quyết 01 ha đất sản xuất và hỗ trợ vốn vay 15 triệu. UB Tỉnh cũng chỉ đạo chuyển đơn của Ông đến Công ty Mía Đường Tây Ninh để xem xét giải quyết yêu cầu được “Hợp đồng trồng mía với Nông Trường” của Ông. Ông có thể liên hệ Nông Trường để hỏi về việc này.
3. Ông Bùi Văn Ngành: Bị Nông Trường Suối Nước Trong thu hồi đất. Nay không đòi đất, chỉ yêu cầu nhận 01 ha đất sản xuất và vay vốn hỗ trợ sản xuất như UB đã hứa. Ông có thể gởi đơn yêu cầu UB Tỉnh sớm rà soát, giải quyết theo nội dung văn bản từ năm 2010.
4. Ông Phùng Văn Kết: Bị Nông Trường thu hồi 5 ha đất. Nay chỉ yêu cầu được hỗ trợ 01 ha đất và tiền vốn sản xuất. Căn cứ Tờ trình về việc đề nghị hỗ trợ đời sống cho hộ dân khiếu kiện ngày 10/7/2011 của UB Xã, Ông có thể làm đơn gửi UB Tỉnh đề nghị sớm giải quyết.
5. Ông Phạm Ngọc Bi, (Thương binh 61%): Ông yêu cầu Nông Trường trả đất bao chiếm của gia đình Ông. Ông mới chỉ được UB Tỉnh cho vay 15 triệu lãi suất 0.6% / tháng và hỗ trợ 28 triệu cất nhà ở. Đề nghị Ông cung cấp hồ sơ sử dụng đất và các văn bản giải quyết của Cơ quan thẩm quyền để VP có căn cứ hướng dẫn.
d) Ông Trần Văn Lý, ở Châu Thành: Ông yêu cầu Tỉnh trả đủ diện tích đất 10.914 m2 (trong tổng số đất Ông khai phá 19.839m2 từ năm 1978). Hồ sơ có nhiều văn bản của UB Huyện + Tỉnh. Các văn bản thể hiện nhiều tình tiết không rõ ràng, không phù hợp pháp luật và mâu thuẫn như:
(i) Thừa nhận gia đình Ông khai phá đất từ năm 1978, nhưng lại tùy tiện “xây dựng trụ sở Ban quản lý Xí nghiệp mì màu nằm trong khu vực đất này” của gia đình Ông năm 1982.
(ii) Sau đó, Xí nghiệp giải thể năm 1986, tài sản (nhà) đã thanh lý. Bỏ đất, Ông tiếp tục sử dụng, đăng ký… Nay UB cho là “bao chiếm đất công”. Từ chỗ người dân san lấp, khai phá trên vùng đất (như UB thừa nhận: trái nổ, bom mìn…), 4 năm sau, tùy tiện đến cất nhà trên đất của dân, 4 năm sau nữa bán nhà cho người khác, thu tiền, bỏ đi. 22 năm sau, kết luận “Dân bao chiếm đất công” nên thu hồi!!!
(iii) Mâu thuẫn, không rõ ràng, khó trả lời… vì làm sai pháp luật nằm ngay ở câu chữ của UB Tỉnh: “Theo Sổ mục kê 2003, Xã Thái Bình, diện tích 19.839,5 m2 không có người đứng tên sử dụng đất. Phần diện tích 8.925m2 Ông Lý đăng ký năm 1989 nằm trong tổng diện tích 19.839,5 m2 đất”. Đã không có người đứng tên… sao lại kết luận đất Ông Lý đăng ký (tức có người đứng tên) nằm trong tổng diện tích này?
Mục đích “hợp thức hóa” việc chiếm đất không đúng pháp luật của UB. Hiện tại, theo UB Huyện, Tỉnh đang xem xét thanh tra lại (Biên bản làm việc ngày 9/8/2013), đề nghị Ông liên hệ UB Tỉnh để yêu cầu sớm giải quyết.
e) Ông Nguyễn Văn Dáng, ở Tân Châu khiếu nại:
(i) Năm 1982, khai hoang được 1,5 ha đất canh tác. Năm 1988, Nông trường mía Nước Trong cưỡng chế lấy đất mà không bồi thường. Hồ sơ có Biên bản hòa giải tại Xã năm 2007, Xã yêu cầu “chứng cứ” khai phá đất… Và sau đó, không rõ đã giải quyết như thế nào?
(ii) Năm 1982, Ông và Ông Ngô Sô mua chung 5 ha đất + khai hoang thêm khoảng 6 ha. Năm 1993, bị thu hồi thực hiện Dự án 327, không đền bù, không được giao đất sử dụng theo Dự án 327. Hiện toàn bộ diện tích đất trên được bán cho Ông Dương Tùng Thanh và Ông Tam Hóa sử dụng. Trường hợp này, nếu Ông có đủ giấy tờ, vui lòng cung cấp cho VP để có hướng dẫn cụ thể. Hồ sơ có văn bản của UB Huyện ngày 7/8/2013 nêu hộ của Ông “không đủ điều kiện thụ hưởng Khu dân cư biên giới Chàng Riệc, và đang xem xét cấp đất sản xuất và vốn sản xuất…” Đề nghị Ông liên hệ UB Tỉnh yêu cầu sớm giải quyết.
f) Bà Nguyễn Thị Thảo, ở Tân Biên:
(i) Bà yêu cầu “trả lại đúng 10,6 ha đất (6,5 ha ở Nông trường Huyện ủy Tân Biên + 4,1 ha ở Nông trường Cao su Xa Mát). VP sẽ trao đổi trực tiếp với Bà làm rõ một số tình tiết, trước khi hướng dẫn.
(ii) Về yêu cầu xem xét Bà bị “cấm đi khỏi nơi cư trú, đe doạ bắt giam…”, hiện chưa có tài liệu, hồ sơ gì kèm theo. Đề nghị Bà cung cấp hồ sơ để có căn cứ hướng dẫn.
g) Ông Nguyễn Văn Dũng (con Bà Phạm Thị Thu), ở Tân Biên, yêu cầu:
(i) Công ty Cao Su Tân Biên trả 4 ha đất (01 ha do Cách mạng cấp + 3 ha khai phá;
(ii) 5,8 ha (Ông Chinh chiếm 4,3 ha và Công ty Cao Su 30/4 Tây Ninh sử dụng 1,5 ha);
(iii) 4,9 ha nay thuộc Khu hành chính Quốc gia Lò Cò – Xa Mát.
Hồ sơ có Thông báo ngày 31/8/2012 của UB Tỉnh, văn phòng sẽ trao đổi trực tiếp với Ông.
h) Bà Võ Thị Lai, Ông Huỳnh Văn Dững, Bà Huỳnh Thị Từ Tư, ở Gò Dầu: khiếu nại thu hồi, đền bù đất thuộc Dự án Khu du lịch Núi Bà. Hồ sơ có Biên bản đối thoại ngày 26/2/2013, với Kết luận: “Tỉnh sẽ rà soát lại một lần nữa…”, hiện không rõ kết quả. Bà con có thể, (hoặc nhờ các Luật sư đã bảo vệ quyền lợi) liên hệ với UB Tỉnh để hỏi kết quả giải quyết.
2. Sài Gòn:
Tập thể Bà con Thạnh Mỹ Lợi – Quận 2: Tố cáo Ông Tất Thành Cang- UV Dự khuyết TW- nguyên bí thư, Chủ tịch; Ông Nguyễn Cư- Chủ tịch- UB Q. 2, câu kết với Đại Tá Nguyễn Văn Lâm- Bộ đội C12, Tổng Cục 2, Bộ Quốc phòng chiếm đoạt 20.278 m2 đất thuộc khu dân cư chỉnh trang, lập Dự án lậu, phân lô, bán nền, xây cao ốc kinh doanh , thu lợi bất chính… Vụ việc này, VP đã giới thiệu VP Luật Sư bảo vệ quyền lợi cho Bà con, đề nghị Bà con liên hệ với VP LS để được tư vấn, giúp đỡ.
3. Bình Phước:
a) Bà Đoàn Thị Tư, Bù Đăng: Bà khiếu nại không đồng ý việc cưỡng chế, thu hồi đất của Gia đình Bà vì không có Quyết định thu hồi, Quyết định cưỡng chế, không bồi thường đất… Đất của Gia đình Bà có Hợp đồng giao khoán trồng rừng với BQL Rừng PH Phú Sơn. Hồ sơ có Thông Báo ngày 9/8/2013, theo đó xác định Thanh Tra Tỉnh đã có báo cáo …” Đề nghị công dân chờ giải quyết của Chủ tịch UBND Tỉnh”. Bà có thể liên hệ UB Tỉnh hỏi kết quả giải quyết.
b) Bà Phạm Thị Huệ, Bù Đăng: (i) Bà khiếu nại UB chặt phá, cưỡng chế đất trồng rừng, có Hợp đồng với BQL Rừng PH. Hồ sơ có Thông báo ngày 9/7/2013 và Thông Báo ngày 9/8/2013, theo đó xác định Thanh Tra Tỉnh đã có báo cáo …” Đề nghị công dân chờ giải quyết của Chủ tịch UBND Tỉnh”. Bà có thể liên hệ UB Tỉnh hỏi kết quả giải quyết. (ii) Về liên quan đến Thi hành án, Tố cáo chấp hành viên Dương Đức Chinh, đề nghị Bà đến VP vào chiều thứ tư để trao đổi trực tiếp.
P. Công lý – Hòa bình DCCT Sài Gòn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét