LTCGVN (21.08.2013)
Bông Hồng TRẮNG
Rằm Tháng Bảy được giới Tăng Ni
Phật tử gọi là Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh
thành, tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, Vu Lan còn là ngày xá tội
vong nhân. Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông Hồng ĐỎ,
những ai mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.
Mỗi năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy “ghen” với những người còn
cha mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những người may mắn! Người Trung
quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Người có công trực tiếp với chúng ta nhất
chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu
cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau
Vu Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ ngày nay có chút gì đó bị
lu mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, rất trọng chữ Hiếu. Như
vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn trọng và duy trì. Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ
thừa hưởng từ cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là
huyết thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc
đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa sinh
thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối cãi, không thể bác
bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút
về lễ Vu Lan – vì nhiều người Công giáo có thể chưa biết rõ!
TÍCH XƯA. Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã cứu mẹ mình ra
khỏi kiếp ngạ quỷ.
Sau khi đã chứng
quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết mẹ mình thế nào nên dùng huệ nhãn dò tìm.
Thấy mẹ rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp
ác, ông đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn,
mẹ ông đã dùng một tay che bát cơm để
không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá
thương cảm, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù ta thần thông quảng đại đến đâu cũng
không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười
phương mới mong giải cứu được. Rằm Tháng
Bảy là ngày thích hợp lập trai đàn để cầu siêu, thiết trai diên để mời chư tăng
thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú
tâm cầu cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.
Rằm Tháng Bảy là
ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu
Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời.
Tôn giả Mục Kiền Liên
làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ
quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu
Lan Bồn Pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan Bồn Hội (tiếng Phạm là Avalambana), đó
là nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời,
được cử hành vào ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong
kinh Vu Lan Bồn. Còn bộ kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.
Theo Phật Quang Đại từ điển, Vu
Lan (tiếng Phạn là Ullalambana), cũng gọi là Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo
huyền (nghĩa là “treo ngược” – nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của
người bị treo ngược, cực kỳ đau đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.
Và thế là mỗi năm,
khi ngày này đến gần, các phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc
chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình,
cha mẹ được bình an phúc đức. Theo truyền thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà
Lương là người đầu tiên cử hành hội Vu Lan Bồn Hội.
Theo Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam , Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng.
Lễ Vu Lan được cử hành vào Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm
vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân
thoát khỏi địa ngục. Rằm Tháng Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày
các vong hồn được tha tội. Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.
SUY TƯ. Người nào thấy
cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút hoặc không văn minh hiện đại mà xem thường
cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, có kém kiến thức hơn
mình, hoặc có là gì đi nữa, thì đó vẫn là những đấng sinh thành đáng kính. Chúng
ta phải nhớ rằng bản thân mình là một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời,
không thể đứng riêng, dù muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là
của cha mẹ mà mình phụ rẫy, vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng
là một con người, vì một danh nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng
đáng nhận danh hiệu con người”. Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một
chân lý. Trên đời này không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa mẹ. Nếu ơn
cao nghĩa dày như vậy mà chúng ta quên đi thì những ơn khác trong xã hội – ơn
của bạn bè, tình làng nghĩa xóm, ơn của người vãng lai,… – làm sao chúng ta có
thể biết ơn và đền ơn?
Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ” (x. Tb 4:3; Hc 3:8),
còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không
gì bằng CÓ HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU”. Không có gì đối lập,
dù đạo hay đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa
Giêsu và “trách yêu”: “Con ơi, sao con
lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng
tìm con!” (Lc 2:48), nhưng rồi
Chúa Giêsu vẫn ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục các ngài
(x. Lc 2:51). Vì vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của chúng ta dành cho
tổ tiên. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu
thân, cố gắng đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù lao” của song thân phụ mẫu, như thế
mới phần nào xứng đáng là người con có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp
“nhị thập tứ hiếu” (chuyện 24 người con chí hiếu).
Hãy
thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện cho những người đã khuất. Đó vừa là
văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công giáo vậy!
TRẦM THIÊN THU
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét