LTCGVN (12.11.2012)
CON ĐƯỜNG
DÂN CHỦ TIẾN BỘ VÀ NHÂN QUYỀN MỚI CHO VIỆT NAM
TẤT CẢ
CHO TỔ QUỐC VÀ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM
I. LỜI
NGỎ
Thế kỷ hai mươi vừa qua là thế kỷ mà những
hệ thống độc tài toàn trị và chuyên chế
nắm chánh quyền trên thế giới này. Chẳng hạn Quốc Xã Đức, Phát Xít Ý, Quân Phiệt
Nhật và Cộng Sãn Liên Sô, Bắc Kinh, Hà Nội, Bắc Hàn, Miến Điện, Cu Ba, Lào, Cam
Bốt vv, đã tạo nên những cảnh bạo lực, chiến tranh, diệt chủng, tàn sát hằng trăm
triệu sinh linh, làm kinh hoàng và rung động toàn thể nhân loại. Sự bạo lực này
rất đa hình và đa dạng do các hệ thống độc tài, độc đoán, đã làm đảo lộn trật tự của thế giới cũng như làm thay đổi những
nền văn hóa truyền thống, nhân bản và tôn giáo của các Quốc Gia đó. Những hệ thống
độc tài tai hại đó vẫn còn kéo dài ăn dấu sự tàn phá ung mủ cho đến ngày nay. Cũng
những hệ thống độc tài phi nhân bản, vô luân lý và bất đạo đức đó hằng thường
trực làm thay đổi nhân tính con người. Từ một con nguời « nhân chi sơ tánh
bổn thiện », thế mà với một mớ lý thuyết cộng sản, quốc xã, thì đã biến hẳn
bản tính người hiền hòa, mộc mạc trở thành thú tính, có khi dữ dằn hơn cả loài
thú. Nói đâu xa xôi, hiện cảnh Đất Nước
Việt Nam ta hiện tại dưới sự cai trị đôc
tài sắc máu và chuyền chế của Hà Nội trong mấy chục năm qua, là một bằng chứng
cụ thể làm đảo lộn tất cả những giá trị văn hóa của cha ông chúng ta hằng có mấy
ngàn năm nay. Để lại một hậu quả là một Dân Tộc vẫn còn triền
miên trong đau khổ, và nghèo đói thì cứ dai dẳng bám chặt vào da thịt người dân
Việt gầy yếu, thiếu dinh dưỡng. Một Đất Nước tự hào có gần 5000 năm Văn Hiến, có
chiều dài lập Quốc anh hùng cùng có lòng bao dung độ lượng hơn người vv. Thế nhưng,
dưới sự cai trị hà khắc của Hà Nội và Đảng gian phi của chúng, thì toàn Đất Nước chỉ hiện hữu sự lạc hậu, kém văn minh
hơn thiên hạ, còn thể chế chính trị thì phi đạo đức, văn hóa rặt toàn hận thù và
sự chết cùng vô luân, cứ ngày này qua ngày khác luân chuyển trên Giang Sơn yêu
dấu chúng ta.
Từ những đau buồn và lo nghĩ ấy, thì chúng tôi
muốn cống hiến cho Dân Tộc Việt cái sức hèn và trí tuệ học hỏi, nghiên cứu của
mình qua những bài viết trước đây đã được qúy vị đón nhận trong tâm tình «
Tất Cả Cho Việt Nam Phú Cường, Tự Do, Dân Chủ, An Thái Và Văn Minh Tiến Bộ ».Từ
tâm tình và tâm huyết này, hôm nay chúng
tôi xin thưa chuyện với quý vị qua bài viết mới này. Tiên khởi, chúng tôi nghĩ đến
những thể chế dân chủ, được thiếp lập và sáng tạo nên những định chế ích lợi cho những đa dạng của các nền văn hóa khác
nhau, tuy nhiên những thế chế dân chủ này được sáng tạo chung thể cho hết con
người : có nghĩa cái phẩm giá con người được phổ quát trong những đa dạng
của các nền văn hóa nhân loại. Đây chính là quan điểm hòa hợp của nhân loại! Quan
điểm hòa hợp này, người ta có thể bắt thấy sự hiệp nhất trong cái đa dạng, cũng
thế ở bên trong hay bên ngoài biên giới của Quốc gia họ. Thế đó, Dân Chủ và Nhân
Quyền là cùng một quan niệm xuyên qua dưới hai góc cạnh khác nhau, song cùng
chung một lý tưởng, một mục đích đem lại tự do, no ấm và hạnh phúc cho con người.
Kể từ thời tiến sử và thời nay, cái nhìn về dân chủ và nhân quyền luôn được con
người quan tâm, trân trọng, vả nữa chúng vẫn còn mở rộng ý nghĩa hơn cho đến bây
giờ, đó là hai hình thể hay hai phương diện chính trị của sự tin tưởng trong lý
do sự hợp lý của dân chủ và nhân quyền cho người dân thời nay.
Đẹp thay! Nhân Quyền được phát triển luôn
trong lòng thế giới này, vì kể từ hơn 60
năm qua, chúng ta thấy Nhân Quyền được ghi chép trang trọng trong những bản văn
của các bản Hiến Pháp tiến bộ của con người. Và Nhân Quyền được xem là sự kết hợp
với Dân Chủ, hầu từ đó những hệ thống dân chủ
có đầy đủ những ích lợi của những quy tắc và tiêu chuẩn mới hơn hầu xây
dựng một Nhà Nước Pháp Quyền Công Minh cùng Dân Quyền Văn Minh và Tiến Bộ. Có được
những Dân Quyền và Dân Chủ cụ thể này, thì Đất Nước Việt Nam chúng ta mới khả thể cất
cánh bay cao trong nhiều lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, mới làm
cho dân được giàu Nước trở nên mạnh.
II. DÂN
CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN KHÔNG GÌ KHÁC CHÍNH LÀ SỰ HỢP LÝ CỦA CHÍNH TRỊ
Qủa thưc sự hợp lý hay duy lý
là ý nghĩa do lòng tin tưởng của con người trong cái khả năng tiến dần đến sự
toàn hảo chung của một lý trí (để giảm bớt các hế thống sai lạc và nhầm lẫm của
con người). Hơn nữa, nó được tỏ lộ rằng Dân Chủ
là sự áp dụng phổ quát vào sự hợp lý của chính trị thời nay. Những nhu cấu
và hoàn cảnh hiện thực của nhân loại do Dân chủ mang lại, không những là một hệ
thống lịch sử được nối kết với một tiêu chuẩn đặc thù được thể hiện qua dân chúng,
lại nữa Dân Chủ là một hình thức phổ quát cho một chế độ cần có sự đối thoại và
bản thảo về thể chế hóa : như các qui
tắc và tiêu chuẩn để chạy đều guống máy cai trị, và cho mọi trình độ chính trị có
thể nhận thức - hầu từ đó, chánh quyền và người dân có được sự thích ứng do một
việc phân chia quyền hành một cách chính xác và hợp lý, hợp nguyện vọng chung của
mọi người. Nhờ đó họ khám phá và nhận ra được những ích lợi hóa của những đa dạng
quyền hành tự nhiên này, giúp họ làm khởi sắc cho một Dân Tộc thăng hóa, và thết
tạo được sự hạnh phúc và an bình cho người dân mình.
Trong ý nghĩa hợp lý và duy lý chính trị này,
chúng tôi mong sao có được một lần mọi người Việt ngồi lại với nhau trong ý nghĩ
Con của Cha Lạc Và Mẹ Âu, với một tâm niệm cho Tổ Quốc Việt Nam và Đồng Bào Việt
Kính Yêu. Để rồi qua việc hội nghị và bàn thảo, cũng như trong những nhu cầu đòi
hỏi của tình thế cấp bách của Đất Nước và Dân Tộc hiện nay. Do từ đó chúng ta có
thế đàm thoại và thảo luận cho một tiến trình tái xây dựng lại Đất Nước mình. Đây
tạm gọi là phương sách giải quyết có lý do hơn cả, hầu với thời gian chúng ta có
thể giải quyết cho những bế tắc và chậm tiến của Đất Nước Việt chúng ta hiện thực.
Cũng từ đó người ta sẽ thấy được cái phương sách mới cho Quốc Gia Việt Nam thăng
hóa với thiên hạ trong kỷ nguyên 21 tin học và kỷ thuật cao này.
Tuy thế, phuơng sách giải quyết này không được
hoàn toàn 100/100 sự tin cậy của mọi nguời dân trong một sự tiến triển cần thiết
cho việc áp dụng vào đời sống hiện nay. Tuy nhiên chúng ta có thể khả tin nhờ vào
một cảm nghiệm của sức mạnh vốn sẵn của giòng máu Việt chúng ta, lại thêm sự tôn
trọng nhân phẩm con người, khả thể sáng tạo nên những lý do mới. Mặc dầu có nhiều
khó khăn vấp phải hầu làm sao tránh được cái giá của những sự khủng hỏang niềm
tin toàn diện của dân chúng, thường là do những sự nghèo khổ, bóc lột mà chế độ
Hà Nội hiện nay tạo nên. Do vậy, chúng tôi nghĩ rằng cần đến niềm tin vào chế độ
Dân Chủ khả thể có thể đem lại tự do, áo ấm, hạnh phúc, ắt làm giảm bớt cơn khủng
hoảng và chao đảo niềm tin của người dân Việt hiện tại. Dân chủ là thể thức hiện
thực của thời đại nay, một cách đặc biệt nó được xem là quy tắc căn bản, và là
bước khởi đầu tái xây dựng cho Đất Nuớc Việt chúng ta. Tât cả được dựa vào ý chí
vươn lên cùng sự khắc phục khó khăn, nan giải, rồi kết hợp với sự vững chắc của
truyền thống dân tộc, để qua đó niềm tin vào chế độ Dân Chủ là thực chất có thể
giải quyết được sự tiến bộ cho Nước Nhà. Sự tiến bộ này hiệp lực và hỗ tương với
niềm tin trong văn hóa, trong tôn giáo dân tộc, là nơi gặp gỡ và hội tụ, cũng
như cuộc tranh luận giữa những con người địa phương, đến trình độ của những con
người quốc gia, quốc tế và hoàn vũ, đóng góp và hội tụ được những hiểu biết đa
dạng và phong phú của các nền văn minh nhân loại, giúp đưa Đất Nước Việt cất cánh
bay cao trên con đường phú cường, an lạc, văn minh và nhân bản hơn (xin quý vị đọc
thêm bài Chinh Trị Nhân Bản và Thuật Trị Quốc Và Giữ Nước , để hiểu những
phương sách chúng tôi nói đây).
Điều chúng tôi đưa ra này không có nghĩa là
một chủ điểm không tưởng, nhưng là sự định vị, sự xác định cho một « kiểu
mẫu lý tưởng » được dụng hành, và được xem là sự bình phẩm và phân tích
trong chế dộ dân chủ hiện thực (xin quý vi xem thêm bài « Chính Trị Nhân Bản »
để rỏ hơn những đóng góp nhỏ của chúng tôi cho Tổ Quốc Việt Nam) ; hay nữa
là sự suy tính cân nhắc cho tiến trình thăng hóa Nước Việt. Do thế, những đề
nghị của chúng tôi là sự xác thực của kiểu mẫu lý tưởng này qua việc Nhân Quyền.Thực
vậy, bởi mỗi một người chúng ta biết rằng những tư tưởng về chế độ dân chủ và
nhân quyền, thì vừa có tính cách lịch sử và có tính cách độc lập hợp lý. Thêm nữa,
chúng ta muốn rằng khi nghị luận ở đây, thì được góp phần, góp sức cho sự trong
sáng có tính cách độc lập, hợp lý của Dân Chủ và Nhân Quyền, đáng lưu ý bằng sự
so sánh một cách có hệ thống các cách thức của nhân quyền và dân chủ trong cộng
đồng xã hội và chính trị trong lòng thế giới ngày nay. Đơn cử cụ thể là Mỹ, Pháp,
Anh, Thụy Sĩ, Nhật, Gia Nã Đại, Úc, Hoà Lan, Thụy Điển, Na Uy vv.
Chúng tôi nghĩ đến cách hay hơn, là bằng mọi
khí cụ Nhân Quyền làm nên, sẽ được quy chiếu vào Dân Chủ, để tất yếu áp dụng vào
đời sống của người dân, của thể chế chính trị hiện nay. Có như thế mới hy vọng
xã hội thăng tiến và có đời sống an lành tự do thật. Thế nhưng, sứ mạng của chúng
ta qua những việc dấn thân tranh đấu và nỗ lực của mình, hầu tạo nên một hình ảnh
đẹp cho xã hội hôm nay (Việt Nam) vẫn còn thiếu tính chất đậm nét thể chế Dân Chủ rõ ràng.
Vì thế, chúng ta có thể quy chiều vào công
thức đối ngẫu chính xác sau :
Tiên khởi, Dân Chủ là một quyền hành và người
dân được xem là đối trọng của Dân Chủ hiện thực trong một Quốc Gia Pháp Quyền,
và chứng minh trong một thể chế chính trị nhân bản. Còn Nhân Quyền không phải
thiết lập nên một số tiêu chuẩn hay quy tắc đồng nhất, song là xuyên qua nhũng
sự đối kháng sâu thẩm cho tất cả những gì liên quan đến tính bất khả phân của
phẩm giá con người. Nói một cách truyền thống và hợp lý của luật lý là Quốc quyền
và thống nhất, do thế mà đòi hỏi chúng tôi cần khai triển phương cách tri thức
luận là một việc cần thiết cho tư tưởng Nhân Quyền, có nghĩa là sự phổ quát và
hoàn vũ, để ngược lại với tư tưởng Luật Pháp đuợc viết thành quyền ở số nhiều.
2.1.
Hai Tiến Bộ Song Hành
Qủa thực, với thời nay, thì tư tưởng của một
thế hệ thứ ba của Nhân Quyền đuợc đề ra nhưng vẫn còn
trong nhiều sự tranh luận. Có nghĩa với một phàm trù mới của những quyền
khác nhau (tập hợp) đối với hai quyền trước (nhân quyền và dân chủ), để rồi nó
tỏ lộ kể từ nay có thế hệ thứ ba trong tư tưởng của những quyền này, tối thiểu
trong các Nước Tây Phương họ đã nghĩ đến việc đầu tiên này trong thể thức luật
pháp.
Quan niệm những quyền dân sự và chính trị
cho phép xác thực các quyền quy tắc, hay là thể thức của xã hội dân sự, bảo đảm
sự hạn chế và giới hạn đến sự hợp pháp của Nhà Nước. Có nghĩa sự khai triển tư
tưởng xã hội cho phép sự mở rộng các quyền kinh tế và xã hội, tạo nên một sự giới
hạn hợp lý của quyền hành Nhà Nước (nhưng cũng nhờ qua đó mà Nhà Nước can thiệp
để nâng đỡ cho một trật tự của xã hội công chính và công bằng). Thế nhưng phàm
trù thứ hai của Nhân Quyền được hiểu rằng là những quyền văn hóa. Theo Nhân Quyền,
thì quyền giáo dục phải được khuyếch trương và mở rộng, thế nhưng những quyền văn
hóa nói đây, vẫn còn bị xem thường trong các chế độ dân chủ trá hình, nhất là bị
tước đoạt trong các Nhà Nước độc tài chuyên chế như Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng,
Havana vv. Sự phát triển những quyền văn hóa, là điều mà chúng tôi muốn đề cập đến,
hơn nữa các quyền nói này là thế hệ thứ ba, được gọi là bước tiến mới trong tư
tưởng Nhân Quyền. Các quyền văn hóa này người ta có thể biểu hiện ra do một sự
quân bình quan trọng trong các lãnh vực: như môi sinh, văn hóa, tôn giáo, kinh tế, chính trị,
được xem hiện thực với hai chiều kích của chúng : có tính cách thời gian (để
quân bình nhiều thế hệ con người) và có tính cách không gian (để hướng vế sự toàn
cấu hoá).
Phải chăng người ta có thể bắt thấy sự song
hành ba bước đường trong quan niệm của chế độ dân chủ?
Bước đường trước tiên là hiển nhiên, bởi vì
nó tạo nên duy nhất và tư tưởng độc nhất : có nghĩa là xác định những quyền
tự do dân sự được thiết tạo cho xã hội dân sự, tự nó bảo đảm chống lại sự độc tài
chuyên chế của Nhà Nước, hay của tất cả mọi quyền hành khác đi ngược lại với các
quyền tự do đó.
Bước đường thứ hai người ta thấy được từ những
lời phê bình gắt gao của Marx. Từ đó giúp các tư tưởng gia đạo đức nhân bản
quan niệm rằng những quyền xã hội bảo đảm một vấn đề cho các hình thái tự do,
cho phép sáng tạo nên những chế dộ dân chủ tốt đẹp ngàn lần hơn chế độ xã hội cộng
sản. Thực thế chế độ xã hội cộng sản, mang tiếng cũng dân chủ như ai, cũng có các
quyền tự do, nhưng bên cạnh đó hoàn toàn là những sự sai trái và gian dối được
lập nên trên một tương quan hóa các quyền, song chỉ có tính cách hình thể
(trong Hiến Pháp để trình làng với thiên hạ). Thế đó những quyền xã hội hiển
nhiên có tính cách tương đối, cũng chính những quyền xã hội này có chiều kích
kinh tế và văn hóa. Qủa sự không hội tố này trong việc khai triển các quyền xã
hội đó đưa đến một sự giải quyết lưỡng nan cho việc làm chính trị hết sức khó
khăn. Qủa thực không thể hội đủ để nói rằng các quyền dân sự làm giới hạn quyền
hành Nhà Nước (gây nên tiêu cực), trong lúc đó các quyền xã hội được Nhà Nước
quy chiếu mở rộng (gây nên tích cực), bởi người ta lưu lại trình độ của một sự điều
giải không có lý do đồng nhất. Do thế, sự xác định những quyền kinh tế và những
quyền văn hóa là một bước đường thiết yếu, được hiểu là sự chung thể của Nhân
Quyền như một cách tất nhiên của các vai trò Nhà Nước Dân Chủ hiện nay.
Bước đường thứ ba mở ra cho con đường này,
là nó đặc trưng và biểu hiệu cho một loại nhân quyền mới, đó là quyền môi sinh,
quyền thông thương, truyền đạt ; hay là một chiếu hướng mới được vận hành
trong sự thông biết, và là những công việc chung thể của nhân quyền : như
quyền dân chúng, nhất là cần điều chỉnh lại hoặc khai triển cho quân bình hơn
(như hòa bình và truyền thống chung của nhân loại). Sự khó khăn của việc canh tân
đặt ra cho những chế độ dân chủ là : sự đồng nhất quốc gia trước việc tôn
trọng những đa dạng và khác biệt của dân chúng. Từ đó tạo nên khó khăn cho Quốc
Gia khi đứng trước những câu hỏi của các
sắc dân thiểu số (người Thượng, người Hoa, người Miên, Ngoại kiều), và đó cũng
là câu hỏi của sắc dân đa số (người Kinh), thường đây là câu hỏi của sư đồng nhất
hóa của các sắc dân (dân tộc), của vấn đề dân chủ hóa với sắc thổ-quốc gia hoặc
địa phương, vùng, quận huyện, làng xã hương thôn, và vượt thổ-quốc gia như khu
vực thế giới và hoàn vũ. Vì vậy những vấn đề môi sinh kinh tế và văn hóa gọi là
những con đường khoa học rất tiến triển để định vị cho mỗi sự quân bình của chế
độ chính trị dân chủ trong cùng một hệ thống hổ tương. Tất cả những câu hỏi và
vấn đề chúng tôi đưa ra đây không những chỉ là việc biến cải, hay khuyếch trương
hầu mang lại một hệ thống đã tạo được những bằng chứng cụ thể của chúng, nhưng đúng
hơn chúng là một sự phẩm bình tận gốc về Nhà Nước, để đưa đến việc suy nghĩ lại
cái động lực và sự sinh động cho chế độ dân chủ có được cách thức sâu sắc hơn cũng
như phổ quát hơn trong lòng dân.
Đây là ý nghĩa của việc song hành, ở giữa
hai sự duy lý hay nềm tin trong sự hợp lý : tất cả được xem là chế độ dân
chủ chiếm hữu một « đề tài vô cùng ». Bởi vì người Dân được xem là
kho tàng quý báu của Nhà Nước, có nghĩa là một xã hội luôn mở rộng cực độ sự hoàn
mỹ, còn Nhân Quyền là sự nhận định khách quan
về nhân phẩm của người dân thường bị tước đoạt trong các chế độ độc tài.
Do đó, Nhân Quyền không do sự phụ thuộc
trong sự xác định những quyền mới, hay hơn, Nhân Quyền là một lý do hợp lý mới,
một sự tất nhiên được xem là thực chất và sự phẩm nghị xây dựng cho các chế dộ
dân chủ lập nên điều hoàn mỹ và hoàn thiện của mình. Tóm lại, Nhân Quyền vừa được
xem là sự phẩm nghị, và là thực chất của chế độ dân chủ đích thực, trong ý nghĩa
áp dụng Nhân Quyền và tiếp tục tôn trọng nhân quyền trong đời sống người dân.
2.2.
Sự Đình Trệ và Tù Hảm
Bước đường thứ ba mở ra về Nhân Quyền chúng
ta vừa nói trên, là sự nhận thức của nhiều lời phê bình về những hệ thống dân
chủ của chúng ta. Có nghĩa những việc hoàn toàn tôn trọng những quyền dân sự và
chính trị phải phỏng chừng thích hợp với những văn kiện quốc tế (les instruments
internationaux). Hà Nội chắc không đạt được những điều kiện này. Giờ đây chúng
ta cần kể ra những điếu quan trọng hơn cả về những sự không hội đủ của Hiến Pháp,
đê rồi qua đó chúng ta làm sự đối chiêu cùng so sánh với sự phát triển của Nhân Quyền.
A. Tước Đoạt Quyền Đấu Phiếu Và Bỏ Phiếu, Ý Muốn
Dân Chúng Và Quyền Ngôn Luân Không Có
Đã mấy chục năm nay người dân Việt Nam không
có cái quyền ra ứng cử và bỏ phiếu bầu Chánh Phủ để lãnh đạo Quốc Gia một cách đường
đường, chính chính với bạn hữu Năm Châu. Hoàn toàn là Đảng mặc áo, đội mũ đóng kịch và đóng vai lãnh đạo
Đất Nước đã bao phủ bao thế hệ qua của người dân Việt. Quyền Ngôn Luận và Phê Bình
cũng không có nốt, 1000/1000 chỉ có cái phê bình một chiều, nếu trái ngược thì
bị chụp cho cái « nón cối » phá hoại cách mạng, phá hoại nhà Nước xã
hội chủ nghĩa, thì chỉ có chiều đi tù mút
mùa mưa nắng. Hai quyền nói này không chỉ vốn tại quyển bỏ phiếu bằng cuộc phổ
thông đầu phiếu có thể liên quan đến vị lãnh đạo Quốc Gia, nhưng quyền bỏ phiếu
chọn lựa vị Quốc Thủ Đất Nước là quyền tất nhiên trong Nhân Quyền của người dân,
nói lên một chế độ tôn trọng sự tự do và ý muốn của dân.
Hơn nữa, khi một Nhà Nước tổ chức một cuộc
tuyển cử và bỏ phiếu bầu vị Quốc Thủ, thì cảm nghĩ chọn lựa của người dân mới được
tự do. Người dân không những từ chối ông A vì lý này hay lý do nọ về tài dức,
nhưng còn có một sự so sánh với ông B và được thông tin, nghe ngóng qua quyền
ngôn luân của báo chí và truyền thanh về phẩm hạnh, tài trí của các ứng cử viên
vv. Thêm nữa, người dân được xem không những là hợp pháp chánh đáng, nhưng còn
trong mức độ mà cái thành quả cuộc bỏ phiếu và tuyển chọn ứng viên được sự cung
cấp thông tin nhiều phía như chánh quyền, cũng như dân sự cho nguồn thông tin về
tiều sử và hoạt động của các ứng viên này. Thế đó, một Nhà Nước Dân Chủ đích thực,
đương nhiên phải hiện hữu những quyến chúng tôi nói này. Thực tại Việt Nam ngày
nay, người dân vẫn chưa có được các quyền nói trên.
Qủa vậy có một sự mơ hồ lẫn lộn giữa cái quyền
ngôn luận và ý muốn dân chúng mà Hà Nội luôn nhập nhằng, đánh lận con đen với
người dân Việt. Vì quyền ngôn luận là một
trật tự hiện thời và là cái hữu ích cho chính trị, bên cạnh đó ý muốn dân chúng
là thành quả của một việc làm đối thoại, tìm hiểu và được tiếp tục nhờ vào lý
do này, là sự tự do của người dân được kính trọng. Chúng ta thấy xã hội chủ nghĩa
Hà Nội sai lầm trầm trọng trong chiêu hướng nói trên, họ đã không xây dựng và
biết tôn trọng sự tự do và cái quyền truyền thông của Báo Chí và Truyền Hình, cũng
thế Hà Nội không biết tôn tôn trọng cái quyền ngôn luận và ý muốn dân chúng. Phỉ
quyền Hà Nội nhắm mắt làm ngơ và bỏ ngoài tai tất cả các ý kiến xây dựng và đóng
góp, cùng ý muốn của Dân chúng. Điển hình vấn đề khai thác quặng mỏ Bauxiste, vấn
đế Lãnh Thổ và Hải Phận cùng Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Do thế, Hà Nội hết thất bại chua cay này đến
thất bại chát đắng khác trên đường xây dựng một Việt Nam phú cường, an thái và
hạnh phúc cho người dân !
B. Luật Đa Số Thắng Thiếu Số Là
Hậu Qủa Thực Tế Những Gì Xã Hội Chúng Ta Chiếm Hữu
Lâu nay thiên hạ thường có cái tư tưởng
« đa số thắng thiểu số » trong mọi lãnh vực. Thế nhưng cái ý nghĩ
truyền thống này đưa đến những mâu thuẫn được tỏ lộ rằng : đa số có thể trục
lợi phẩn thiểu số, có thể ý kiến này dần dần được thay đổi cho phù hợp với thời
thế hiện nay hơn. Vì vậy, phải có những hệ thống bảo vệ cho sự hợp pháp và chính
đáng của Hiến Pháp cùng thích ứng với chính trị trong thời đại tân kỳ này. Do
những lời phẩm nghị, và tiêu chuẩn nhân danh Nhân Quyền người ta có thể kiểm lại
Hiến Pháp và xem lại Luật Pháp Quốc Gia mình, có còn hợp thời với trào lưu tiến
hóa và văn minh của nhân loại chăng ? Cũng thế, Nhân Quyền cần có một quy
tắc kiểm soát hệ thống đa số, cũng như cần có một hệ thống hiệu lực để kiềm soát
đường lối chính trị và tư pháp, do bởi một nguồn tin tức cùng tài liệu được
cung cấp qua các nhà báo trung thực, khả tín vv. Chúng ta thấy rằng Hà Nội, Bắc
Kinh, Bình Nhưỡng hay một vài Nuớc dân chủ nữa nạc nữa mỡ, hằng độc chiếm quyền hành, độc chiếm nhiếu quyền
của người dân về nhiều lãnh vực chính trị, xã hội, quốc phòng vv. Đó là điều mà
chúng tôi muốn nói đến, là thiểu hẳn một chiếu kích của đạo đức luân lý thời đại
nay. Do đó, là Chánh quyền thì phải bảo
đảm xuyên qua từ cái quyền ngôn luận đến cái ý thức ý muốn chung của người dân,
và đây là sự xứng hợp cái quyền tối thượng của người dân, nhờ qua thể chế hóa hệ
thống như đối tượng sự đối thoại. Có nghĩa Chánh Quyền luôn lắng nghe nguồn thông
tin đến từ dân chúng vá có sự tôn trọng những khác biệt và đa diện của nó. Chánh
quyền cũng cần thiếp lập, tiếp xúc và thông đạt những nguồn thông tin đa diện này,
và những kiểu quyền khác nhau này đến với mọi người dân mình.
C. Sự Độc Chiếm Chính Trị Do Một
« Giai Cấp Chính Trị » Như « Bộ Chính Trị » Hà Nội.
Trước hết, chúng ta hiểu chính trị như thế
nào và chính trị là gi? Chính trị theo ý cổ truyền định nghĩa rằng là nghê
thuật cai tri hay quản trị (l’art de gouverner), đó là thiết lập hiến pháp của
một giai cấp chính trị với một sự phân biệt giữa những người cai trị và những kẻ
bị trị. Công việc chính trị là những sung công của Nhà Nước, và những đảng phái
thì làm trọng lực chung quanh. Còn từ ngữ « Nhà Nước Pháp Quyền » của
Hà Nội, thì thật ra chỉ có nghĩa duy nhất cho Nhà Nước là pháp quyền, mà Nhà Nước
đó không ai khác hơn là « Bộ Chính Trị ». Còn người dân thì không có
pháp quyền mà tùy quyền theo Nhà Nuớc Hà Nội. Vì thế, phải hoàn toàn có sự phân
tách rõ ràng những quyền hành trong xã hội Nhà Nước Việt Nam chúng ta hiện nay,
hầu tránh được những bất hạnh, sự tồi tệ thường xảy ra giữa Nhà Nước và người dân
Việt. Và chỉ có theo đường lối này Nhà Nứớc mới chính danh là một Nhà Nước Pháp
Quyền. Nhất là để cho giòng nước lớn dân chủ được chảy xuyên thâu qua mọi ngỏ
ngách, khu phố, xóm làng, quận huyện của Việt Nam. Đẹp nữa, đó chính là sự phát
sinh tản quyền, chia quyền và tôn trọng Nhân Quyền thực sự của đường lối nghệ
thuật chính trị và cai trị của thời nay.
Sau nữa, ngữ nguyên nghĩa của chính trị là
nghệ thuật tổ chức (thiêt lập và duy trì). Ngữ nguyên học của từ chính trị, cũng
có nghĩa là đời sống dân sự. Trong trường hợp này, thì chính trị liên quan đến
tất cả mọi người dân và mới gọi họ tổ chức đời sống dân sự về nơi chốn họ làm việc
và sinh sống, cũng như giữa lòng những xã hội khác nhau, để từ đó tất cả mọi người
dân đều được kêu mời tham dự phần đóng góp của mình vào chính trị để thăng hoá Đất
Nước. Chúng ta thấy những quốc gia theo chế độ dân chủ có được sự sung công rộng
rãi các quyền hành, và họ không những tôn trọng các ý kiến và ý muốn của đại đa số người dân, những cũng
còn tôn trọng và chấp thuận những ý kiến hữu ích của phần thiểu số người dân. Tối
thiểu là họ sáng tạo nên những nơi chốn mới, những thể thức mới phù hợp với những
tư tưởng mới về luân lý và đạo đức cho thể chế dân chủ ngày nay.
D. Không Minh Bạch Sự Tách Biệt
Các Quyền Hành
Thực tế, chúng ta thấy sự phân chia ba quyền
hành theo thể chế dân chủ đích thực, thì thật ra không có ở Việt Nam, dù có đi
nữa thì hoàn toàn không có sự tôn trọng trong xã hộị Việt Nam hiện thực. Hà Nội
đừng ngụy biện và không thể nào lý giải được điều đi ngược trào lưu dân chủ này.
Vì chúng ta chỉ thấy sự độc chiếm chính trị và quyền hành là quá dễ dàng đối với
các chế độ độc tài như cộng sản. Bởi Hà
Nội cho phép tập trung ba quyền hành lại thành một quyền độc chiếm cho Đảng,
trong lúc đó sự tách biệt ba quyền hành rất cần thiết phải có hầu sinh động chế
độ, là một nhu cầu có hệ thống cho quyền hành của guồng máy chánh quyền thời
nay. Do đó mà sự tản quyền và phân chia quyền hành theo chế độ liên bang, hay
chế độ làng xóm hương thôn theo địa lý của ông bà ta ngày xưa, xuất hiện và
sinh thành như một ý thức thiết yếu cho việc làm chính trị thời nay vậy.
E. Độc Chiếm Quyền Hành Càng
Sinh Sôi Nảy Nở
Như chúng tôi đã nói trên ba quyền Hành Pháp,
Tư Pháp và Lập Pháp, thì Hà Nội gom lại một quyền cho mình là Đảng Quyền, mà
nhiều lần chúng tôi đã để cập đến tính cách phi chính trị và vô văn hóa của họ.
Qúy vị đã rõ báo chí, truyền thanh, truyền hình được xem là một cái quyền đối với các xã hội tự do dân chủ.
Và quyền hành tự do thông tin và in ấn đó
được Nhà Nuớc tôn trọng hầu như tuyệt đối ở các Nước Dân Chủ Tây Phương, mà có
lần chúng tôi đã nói là Quyền Báo Pháp Và Ngôn Pháp. Thế nhưng cái quyền hành
thông tin và in ấn này hằng luôn chịu sự áp lực và kiểm soát thường trực của Hà
Nội. Tiếp nữa, các quyền văn hóa và giáo dục cũng có bàn tay thuồng luồng của Đảng
thò tay vào cấm đoán và xiêt chặt. Lý thực Hà Nội muốn được tiếng là có Nhân
Quyền và Dân Chủ, thì ngay từ bây giờ phải duy trì và thiết tạo lại những quyền
hành văn hóa đa dạng này, hầu tạo bộ mặt xứng danh nhân bản, tiếng thơm cho dân tộc là văn hiến, hầu làm sinh động cho
xã hội dân sự có văn minh với thiên hạ bốn bể, năm châu.
F. Thiếu Sự Xác Thực Của Những
Công Dụng Quyền Hành Và Nhà Cầm Quyền
Thực thế, quần chúng và người ta thường có
sự nhẫm lẫn và lẫn lộn về chính ý niệm của quyền hành và nhà chức trách (người
cầm quyền). Vì khi đi theo ý niệm này, chúng tôi vẫn còn thấy được sự phổ quát
trong xã hội, điểm này rất nguy hiểm dễ tạo nên cho quyền hành hay người cầm
quyền có được sức mạnh và quyền lực, dễ trở thành chế độ độc tài. Trái lại, là
những chế độ dân chủ, thì quyền hành và nhà cầm quyền phải mãi ở trong một tương
quan yếu. Vì khi sức mạnh chính trị vẫn lưu mãi sự lẫm lẫn này với sự bạo lực của
Nhà Nước và công an cùng cảnh sát, tất tạo nên những kinh hoàng cho dân chúng.
Tại sao vẫn còn mãi quyền hành và Nhà Nước như thế, mà không thấy nó yếu đi ? Lý thực là xã hội Việt Nam này không có một sức
mạnh xác thực của chế độ dân chủ.
Qua sự hiện thực của hai công dụng quyền hành
và Nhà Nước (tích cực hay tiêu cực, trái quyền hay hợp quyền) mà chúng tôi đưa
ra đó, tất nhiên Nhân Quyền được sinh thành như những tiêu chuẩn căn bản không
thể loại bỏ cho cộng đồng chính trị đó, nhất là cho Việt Nam hiện nay.
G. Thiếu Sự Bình Đẳng Hay Vấn Đề
Nan Giải Của Chủ Nghĩa Bất Bình Đẳng
Những gì chúng tôi đã nói ở các phần trên,
thì thường là những câu hỏi liên quan đến những vấn đề và những nan giải cụ thể
của xã hội chúng ta sống (VN) : Có nghĩa cái quyền khác nhau không chỉ một
quyền cá nhân mình được bảo vệ, song quyền đó cũng là quyền hữu ích cho xã hội.
Qủa khi chúng ta quan sát xã hội Việt Nam hiện nay về những sự khác nhau, thì
chủ nghĩa bất bình đẳng cho biết bao là quyền lãnh đạo của Đảng quyền cho đến
quyền lãnh đạo của Bộ Chính Trị, tạo nên vô vàn thủ đọan và những phương sách hèn hạ, làm thiết hại chung
cho xã hội và Đất Nước. Hà Nội và Đảng quyền là điển hình của cái độc quyền bất
bình đẳng này. Cho cá nhân người Việt, thì thiếu tự do và đôi khi nó giết chết
cái quyền căn bản biện luận, quyền khai tâm và thụ giáo cùng quyền bình phẩm và
phê bình.
Thế đó, chúng ta phải tỏ thái độ định rõ về
tiểu đề nói này, và nên đặt lại câu hỏi cái quyền bình đẳng căn bản giữa hết mọi
người với nhau : lý do không nên có sự phân biệt, vì khi có sự phân biệt này,
thì không có nhân quyền. Tuy nhiên, cũng cái quyền loại giống, chẳng hạn quyền
phụ nữ, quyền trẻ em (droit des femmes, droit des enfants … thì người ta tạo nên
những sự phân biệt không độc đóan và tíêu cực, đó là sự cần thiết để chúng ta cảm
thấy được những con đường không bình đẳng của các quyền về loại giống và thể lý,
tâm lý, từ những quyền trừ ra này là chứng minh bởi những sự không bình đẳng của
bổn phận đến việc làm và sự phục vụ của sự phát triển xã hội và nhân loại . Có
nghĩa chẳng hạn, phái nữ thì không thể đòi hỏi mình làm các việc nặng như phái
nam, hay trẻ em cũng thế, hoặc bắt một người bệnh họan làm việc như một người
khoẻ mạnh được, đó là vần đề thể lý và tâm lý như đã nói trên.
Một cách nghiêm túc, chúng ta có thể lấy lại
những lời phẩm nghị của Triết gia Platon. Ông nghĩ rằng chế độ dân chủ cung cấp
sự bình đẳng đến cho những ai là bình dẳng cũng như cho những ai là không bình đẳng.
Qua đó, có hai trình độ của sự bình đẳng, đó là quyền và đó là thẩm quyền (quyền
hạn). Chớ gì chế độ dân chủ của chúng ta chắc chắc không còn có sự cảm thấy những
khác nhau này, để cho phép chúng ta tôn trọng sự bình đẳng của quyền trong cái
sự chấp thuận những sự không bình đẳng của quyền hạn hữu ích cho hết mọi người.
Như Nietzsche đã là nhân chứng của sự phản kháng này chống lại cái tầm thường
trong suốt chiều dài của hệ phổ học luân lý, khi ông khẳng định lời mình rằng phải
bảo vệ bênh vực những người mạnh chống lại những kẻ yếu. Cách thức này qủa là rất
nguy hiểm, song cách thức này không thể uốn cong ý nghĩ này. Đơn cử như câu nói
của Mao Trạch Đông « sức mạnh của Đảng trên đầu súng » hay có thể nói
sức mạnh của người mạnh trên đầu súng chống lại kẻ yếu. Vì nhân dân làm gì có súng
mà chống lại Đảng.Và đây là cách thức mà các tay bạo chúa, độc tài, quân phiệt
và cộng sản áp dụng triệt để với dân chúng tay không chống đối họ.
Để từ đây, Nhân Quyền xứng hợp với sự tự do
và sự bình đẳng, nhất là sự phát triển của nó cho phép chúng ta vạch ra con đường
dân chủ tiến bộ, hầu xử dụng cái hiệu năng phong phú và hợp pháp của người đối
lập, là có tính cách khách quan chống lại những gì sai trái và tội ác của cái
chế độ vô nhân đạo của cộng sản.
(còn tiếp)
Nam Giao Lê Thiện Bình
Tác giả gửi trực tiếp cho Lương Tâm Công Giáo Việt Nam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét