LTCGVN (06.11.2012)
Bài học yêu nước qua tấm gương Ngô Đình Diệm
Trong buổi thuyết trình
với Sinh viên cao học khoa Quản trị kinh doanh của trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
một sinh viên đặt câu hỏi „tại sao nước Đức đã phát triển một cách nhanh chóng
và trở thành nước giầu nhất Âu châu mặc dù đất nước họ bị tàn phá nặng nề sau
thế chiến thứ hai?“. Người viết đã trả lời rằng, „trong những thập niên gần đây
những quốc gia phát triển nổi bật là Nhật, Đức, Hàn quốc, Do Thái và Đài Loan. Đặc
tính rõ rệt chung của 5 Dân tộc này là lòng yêu nước và tự hào Dân tộc. Một thí
dụ nhỏ là khi sản xuất một cái muỗng (thìa) mang tên nước họ, vì tính tự hào Dân
tộc họ cố sức sản xuất cái muỗng (thìa) với chất lượng cao nhất để xuất cảng ra
nước ngoài để người tiêu dùng nể nang Dân tộc họ. Do đó sản phẩm của họ được
mua nhiều và đất nước họ được phát triển“.
Trong hai bài „Thời nào
Dân Việt sướng nhất?“ người viết đã so sánh mức lương người dân trong các thời đệ nhất, đệ nhị Cộng hoà với mức lương
người dân Việt vào năm 2006 là năm có thể nói là sung túc nhất của thời kỳ XHCN
trước khi xảy ra những cuộc khủng hoảng liên tục từ năm 2008. Kết quả cuộc so sánh
là người dân trong thời đệ nhất Cộng hoà có mức lương cao nhất mặc dù tài chánh
hỗ trợ từ nước ngoài vào nước ta thời đấy thấp nhất.
Tại sao thời đệ nhất
Cộng hoà người dân sống sướng hơn thời năy mặc dù chế độ đó đã chấm dứt trước đây
49 năm? Chẳng lẽ người dân Việt thời bấy, theo logic được trên đây, yêu nước hơn
các thời kỳ về sau? Việc chứng minh lòng yêu nước của người dân Việt thời bấy
giờ rất khó khăn, chúng ta cùng lật lại những trang sử để cùng xem xét lòng yêu
nước của lãnh tụ thời đó đại diện qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông.
Trong bài nhận xét ngắn
này, chúng ta cùng tìm hiểu thân thế của Tổng thống Diệm là nền tảng hun đúc
con người và cũng là nền tảng cho mọi quyết định hành động của ông. Sau đó chúng
ta cùng xem xét một số tình huống ông giải quyết trên nển tảng quyền lợi đất nước
hay quyền lợi bản thân?
Thân thế
Thân sinh của Tổng thống
Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, người đã sáng lập trường Quốc Học Huế là ngôi
trường đầu tiên tại Việt Nam dậy theo chương trình Đông và Tây, và làm tới chức
Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần thời Vua Thành Thái. Cụ Khả là bạn thân của các nhà
cách mạng nổi danh thời đó như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để. Do mưu toan một cuộc cách mạng ôn hoà của Vua Thành Thái bị bại lộ,
thực dân Pháp gán cho nhà Vua chứng bịnh điên, ép các quan trong triều đình ký
sớ xin Vua thoái vị rồi đưa đi an trí ở Phi châu. Riêng chỉ có một mình cụ Ngô Đình
Khả không ký, sau đó cụ từ quan và bị thực
dân Pháp cho tước mọi quyền lợi, bổng lộc. Gia đình cụ sống rất khó khăn, cảm
phục khí phách của đồng liêu, cụ Tôn Thất Hân đã ngần giúp cụ Khả mỗi tháng 10 đồng
để chi dùng.[1]
Ngoài người cha ruột ông
Diệm còn có một cha đỡ đầu đã đóng góp rất nhiều trong việc giáo dục tinh thần ông
là Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài. Khi người Pháp tham lam muốn đào mả Vua Tự Đức để
lấy của thì Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài là người duy nhất trong triều đình chống đối.
Cho nên dân chúng miền Trung kính trọng khí tiết của hai cụ đã truyền tụng với
nhau rằng: „Đày Vua không Khả, đào mả không Bài“
LM Trần Qúy Thiện đã
mô tả nền giáo dục mà TT Diệm đã được hấp thụ như sau:
„Ngoài việc hấp
thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ,
cậu Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa
Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh
liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông
Diệm thành một con người đày lòng bác ái, vị tha và công chính.[2]“
Trước khi lìa đời, cụ
Khả căn dặn ông Diệm rằng:
„Diệm con có đủ
đức tính cần thiết để trở thành người lãnh đạo tốt, con phải lãnh đạo.“
và cụ nói với các
con:
„Các con phải cùng
với nó (ông Diệm) dành lại nền độc lập hoàn toàn, thì mới thực hiện được công
cuộc cải tạo xã hội, xoá bỏ bất công được“.
Tất cả các con cụ đã
thề sẽ cùng với ông Diệm thực hiện bằng được ước nguyện của cụ[3].
Khi Vua Bảo Đại lên
ngôi vào năm 1932, nhà Vua đã mời ông Ngô Đình Diệm lúc đó là Tuần vũ Phan Thiết
làm Thượng Thư Bộ Lại (Thủ tướng). Trong chức vụ quan trọng này ông đề xướng
hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo
Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền
tự do thảo luận mọi vấn đề. Vì không được toàn quyền Pháp Pasquier chấp nhận,
ông từ chức ngày 12 tháng 7 năm 1933[4].
Ông Diệm trở về sống
tại nhà của thân sinh gần Huế và đi dậy học Thiên Hựu (Providence). Ông từ chối
mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính
quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nắm bộ nội vụ nhưng ông từ
chối.
Năm 1951, ông Diệm
qua Mỹ sống phần lớn trong các chủng viện Maryknall, Lakewood, Ossining và đi
vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam. Tháng 5 năm 1953 ông sang
Pháp, Bỉ. Tháng 6 năm 1954 ông nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại trở về Việt
Nam làm Thủ tướng.
Giáo hội ở trong
quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội
Dưới thời Pháp các chủng
viện Công giáo không chịu ảnh hưởng, kiểm soát bởi chính quyền. Vào năm 1958/59
Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thay đổi luật Chủng viện Công giáo, điều luật mới xếp
hệ thống giáo dục Chủng viện Công giáo tương đương với các trường tư thục, dưới
sự chi phối của Nha Tư thục. Hàng giáo phẩn Công giáo coi đây là một cưỡng chế
tự do tôn giáo. Các Linh mục nhiều điạ phận đồng loạt đứng lên phản đối. Đức Khâm
sứ Toà thánh trực tiếp can thiệp nhưng Tổng Thống Diệm nhất định không thay đổi.
Một số Linh mục xin vào yết kiến, Tổng thống nghe xong rồi trả lời rất ngắn ngủi
„Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội[5]“.
Chủ quyền quốc
gia, quyền lợi Tổ quốc là trên hết
Năm 1961 cộng sản gia
tăng khủng bố nên Tổng thống Diệm cần phải tăng cường quân đội. Hoa kỳ cũng cho
tăng viện trợ quân sự và lợi dụng tình thế họ đòi hỏi Tổng Thống Diệm phải cải
cách, „biến miền Nam Việt Nam thành một chế độ chính trị dân chủ theo kiểu
Mỹ và để người Mỹ đồng cai trị miền Nam[6]“.
Đòi hỏi này Tổng Thống Diệm không chấp thuận và đề nghị chính phủ Mỹ ký kết với
Việt Nam một hiệp nghị phòng thủ song phương tương tự như Mỹ đã ký kết với Đại
Hàn nhưng không được Tổng Thống Kennedy đáp ứng. Một số chính khách Mỹ, trong đó
có Đại sứ Elbridge Durbrow với chủ chương cứng rắn là buộc Tổng Thống Diệm chấp
nhận đề nghị cải cách của Mỹ. Nếu không thì lật đổ ông và kiếm người thay thế.
Có lần ông Nhu đặt câu
hỏi với ông John Mecklin, một người Mỹ có chủ trương lật đổ
TT Diệm, Giám đốc sở báo chí Hoa Kỳ kiêm phát ngôn viên toà Đại sứ Mỹ tại Sàigòn, tại sao chính phủ Mỹ không giúp Việt Nam như kiểu giúp
Tito ở Nam Tư là viện trợ vật chất nhưng không xâm phạm vào hiện tình của xứ được
giúp đỡ? Qua cuốn sách của ông John Meklin được xuất bản vào năm 1965 mang tựa đề
„Mission in torment: an intimate account of the U.S. role in Vietnam“ (Sứ mệnh
trong đau khổ: một mật báo về vai trò của Mỹ tại Việt Nam) đòi hỏi cải cách của
Mỹ được nêu trên dẫn đến việc thành lập một chính quyền trong bóng tối thuộc Toà
Đại sứ Mỹ, nhiệm vụ của chính quyền trong bóng tối này là xét những việc cần làm
sau đó đốc thúc chính quyền miền Nam Việt thi hành.
Đại úy Lê Châu Lộc
cho biết trước khi tiếp xúc với Đô đốc Felt vào năm 1962, Tổng thống Diệm rất đăm
chiêu, đọc kỹ nhiều tài liệu và thảo luận với rất nhiều người. Trong phần người
Mỹ muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Diệm đã nói với Đô đốc
Felt với đại ý như sau:
„Trong cuộc chiến
đấu chống lại Cộng sản quốc tế chúng tôi cần sự giúp đỡ. Ngó quanh khắp thế
giới không ai có thể giúp chúng tôi, ngoài người MỹNhưng cuộc chiến này tế nhị
lắm! không chỉ thuần tuý giao tranh bằng súng đạn, mà có cả chiến tranh tâm lý,
có công tác tuyên truyền. Chúng tôi vừa mới đuổi được người Pháp đi sau bao
nhiêu năm chúng tôi chịu ssự đô hộ của họ. Nếu bây giờ người Mỹ lại tới đây,
hiện diện trên đất nước tôi bằng những đạo quân tác chiến. Người dân Nông thôn
vốn chất phát, họ sẽ nghĩ rằng người Mỹ đến đây cũng chẳng khác chi người Pháp
trước kia. Như thế tôi biết làm sao giải thích cho đồng bào tôi hiểu. Vì dân
tôi rất nặng lòng với nền độc lập, không muốn chủ quyền bị xâm phạm… Tôi mong
rằng người Mỹ hiểu cho tôi. Vì nếu tôi chấp nhận cho quân đội tác chiến Mỹ ở
đây, tôi nói làm sao với dân tôi bây giờ?[7]“
Trong cuộc đi viếng vùng
Tràm chim với Tổng Thống Diệm và một số Bộ trưởng, Đại sứ Nolting có dò ý yêu cầu
chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cho Mỹ sử dụng căn cứ Cam Ranh, tháng 3.1963 đại ttướng
Harkins lại ngỏ ý qua ngã tướng Khánh, nhưng Tổng Thống Diệm đều từ chối[8]
Tháng 10 năm 1963 nhân
dịp về thăm nhà tại Huế Tổng Thống Diệm đã hàn thuyên rất lâu với cụ Võ Như
Nguyện, một cựu cộng sự viên thân tín mà Tổng Thống Diệm đã quen biết từ thuở ông
thường đi lại với cụ Phan Bội Châu. Tổng thống cho cụ Nguyện biết mưu toan của
Mỹ muốn làm cuộc đảo chánh và nguy hiểm đang chờ ông:
„Sẽ nguy hiểm lắm! Mỹ sẽ chơi sỏ tôi. Nếu
tôi accepter (chấp nhận) những chuyện của hắn (thay đổi cho Mỹ đem quân vào
Việt Nam) thì yên, nhưng còn chi uy tín của Tổng Thống, còn chi uy tín của nước
Việt Nam.[9]“
Trong quyển „Bên giòng
lịch sử“ Linh mục Cao Văn Luận đã viết lại cuộc gặp gỡ của ông với TT Diệm vào
tháng 10,1963, sau cuộc viễn du Hoa kỳ ông đã đề nghị với TT Diệm:
„-…Bây giờ, thưa
cụ chúng ta cần người Mỹ, lệ thuộc nhiều vào người Mỹ, chịu ảnh hưởng nặng nề
vì sự thương hay ghét của họ. Nếu không vì những lợi ích thiết thực mà phải cải
tổ chính phủ, thì cũng nên vì để làm hài lòng người Mỹ mà cải tổ, để họ khỏi
phá hoại. Cụ cũng đã hiểu câu châm ngôn “ai chi tiền thì kẻ đó cai trị”. Hiện
nay người Mỹ đang chi tiền. Nếu cụ cứng rắn quá sẽ bị bẻ gẫy.
Ông Diệm có dáng
suy nghĩ, lo lắng, chú ý hơn lúc đầu một chút:
- Nếu bây giờ
chúng ta nhượng bộ Mỹ một bước thì Mỹ sẽ đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ
cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang cho Bảo An, Dân Vệ, Thanh niên Chiến Đấu, Mỹ
không chịu. Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không chiụ cấp vũ khí và
phương tiện, Mỹ chỉ mưốn đưa quân sang Việt Nam thôi[10]“.
Trân quý mạng sống
người dân, mạng sống người lính
4 giờ chiều ngày
01.11.1963 đại sứ Lodge lần thứ hai trong ngày gọi điện thoại nói chuyện với Tổng
Thống Diệm, đề nghị anh em Tổng thống Diệm rời dinh Gia Long đến tỵ nạn tại Toà
đại sứ Mỹ và sau đó sẽ thu xếp để anh em ông xuất ngoại, nhưng Tổng thống Diệm đã
từ chối. Đến 4:30 Tướng Đôn điện đàm cùng Tổng thống Diệm yêu cầu ông từ bỏ mọi
quyền hành và xuất ngoại vì quân đội đã đứng lên đảo chánh và đã vây chặt thành
Cộng Hoà cùng dinh Gia Long. Tổng thống Diệm nói như quát trong điện thoại „Quân
mô? Vây ở mô?“. Thực sự lực lượng đảo chánh không đáng kể. Sư đoàn 5 còn ở
ngoài đô thành. Phú Lâm, Khánh Hội, Chợ Lớn, Cầu Chữ Y, Thị Nghè còn bỏ trống.
Các Tướng lãnh tưởng rằng, khi đọc hiệu triệu trên đài phát thanh thì các cánh
quân của Quân đoàn ÌI (trong đó có sư đoàn 5) đã vây chặt thành Cộng Hoà và
dinh Gia Long. Trên thực tế quân đảo chính còn rời rạc, lẻ tẻ, chưa vượt qua được
cầu Phan Thanh Giản và cầu Thị Nghè vì bị Lữ Đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thống chận
lại.[11]
Đại Tá Duệ đã tường
thuật rằng, ông được báo cáo từ nhiều nguồn cho biết phòng thủ ở Bộ Tổng tham mưu
rất sơ sài chỉ có một số tân binh quân dịch ở Quang Trung lên tăng cường mà
thôi nên ông đề nghị Tổng thống cho quân kéo lên đánh thẳng vào Bộ Tổng tham mưu
bắt các Tướng.Tổng thống không đồng ý và ra lệnh qua sĩ quan tùy viên rằng [12]:
„Bảo Duệ đừng nóng
nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các tướng lãnh để cố tránh đổ máu“
Cụ Cao Xuân Vỹ lúc đó
ở cạnh Tổng thống Diệm lên tiếng đồng ý với ý kiến của Đại tá Duệ bị Tổng thống Diệm lên tiếng trách:
„Tôi là Tổng tư
lệnh quân đội. Tôi lại ra lệnh cho quân đội đánh quân đội à? Tôi còn mặt mũi
thấy quân đội nữa không? Có chi thì ngồi giải quyết, chứ quân đội là để chống
Cộng, sao lại đem đánh nhau?[13]“
Trong bài phỏng vấn với
ông Minh Võ, cụ Cao Xuân Vỹ cho biết lúc đó không phải chỉ có Lữ đoàn Phòng vệ
phủ Tổng thống xin lên tấn công mà còn đại đội Biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt
cũng báo cáo là phòng vệ các Tướng ở Bộ Tổng tham mưu rất yếu, xin được cùng 2
tiểu đoàn của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Thổng thống đột kích bắt sống các Tướng đảo
chánh. Nhưng Tổng thống Diệm.
Từ nhà thờ Cha Tam Chợ
Lớn, sáng ngày 02/11/1963 Tổng thống Diệm đã liên lạc với các Tướng đảo chánh và
các Tướng đã cho xe „rước“ Tổng thống và ông cố vấn Nhu về Bộ Tổng tham mưu.
Theo tiết lộ của LM
Jean, ông đã thuyết phục anh em Tổng thống Diệm không nên gặp các tướng đảo chánh,
nhưng hai ông từ chối[14]:
„Xin Tổng thống và ông
Cố vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ dưa Tổng thống và ông Cố vấn đến một nơi an toàn
nhất.“
Tổng Thống Diệm:
„Cảm ơn Cha, tôi
thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi đã dâng trọn cho Chúa và Mẹ Maria
nhưng tôi vẫn còn là nguyên thủ quốc gia. Tôi còn trách nhiệm với dân.“
Tổng thống Ngô Đình
Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị các tướng đảo chánh mà Tổng thống Johnson gọi là
„bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” (a goddam bunch of thugs) ra lệnh giết chết
trên chiếc xe M113 sau khi họ đón hai ông từ nhà thờ Cha Tam.
Phản ứng sau cuộc
sát hại TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu
Khi đuợc tin ông Diệm
bị lật đổ, ông Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid
Burchett: „Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế“".
Nguyễn Hữu Thọ nói
với báo Nhân Dân: „Sự lật đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi.“
Khi tướng Võ Nguyên
Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông McNamara ở Hà Nội tháng 11
năm 1995, họ nói rằng: „Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói.
Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho
người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa
người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông
Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều
đáng làm cho người ta ngạc nhiên“ [15]
Những người gần gũi Tổng
thống giờ phút cuối kể lại cho họ hàng, bè bạn về cách hành xử của Tổng thống mặc
dù cái chết bản thân mình đang cận kề, nhưng nhất quyết không để người khác phải
đổ máu để bảo vệ bản thân ông. Nên dân chúng đã truyền nhau câu vè:
„Đày Vua
không Khả,
đào mả không Bài,
hại dân không Diệm“
Bài học từ Tổng
thống Ngô Đình Diệm
Lòng yêu nước, tinh
thần Dân tộc là sợi dây chắc chắn nhất, bền bỉ nhất và chân thành nhất liên kết mọi con dân của Dân tộc.Vì sự liên kết
đó dựa trên một nền tảng duy nhất là quyền lợi Dân tộc, Tổ quốc. Tổ quốc Việt
Nam đã được cha ông chúng ta gầy dựng và gìn giữ từ hơn 4000 năm qua cho dù phải trải qua nhiều cuộc chiến với kẻ
thù xâm lược. Dân tộcViệt Nam đáng tự hào là có được những trang sử oai hùng với
Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi vv… Dân tộc và đất
nước chỉ được phát triển thực sự, nếu những tinh hoa của Dân tộc được phát huy.
Tổng Thống Ngô Đình
Diệm là một tấm gương sáng về cho sự thanh liêm, lòng yêu nước, tính tự cường,
sự bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước mà mọi con dân nước Việt cần phải
nuôi dưỡng và phát huy. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, gìai đoạn đen tối nhất
của lịch sử Việt Nam. Giai đoạn mà chính người Việt lại đàn áp, bắt bớ, đánh đập,
giam tù đồng bào của mình, bởi vì họ thổ lộ lòng yêu nước lên tiếng đòi hỏi quyền
lợi Dân tộc, đòi hỏi chủ quyền đất nước. Giai đoạn mà lòng ái quốc, tinh thần Dân
tộc bị trừng phạt, hèn nhát, tinh thần vọng ngoại được ban thưởng. Chính sách này
rõ ràng nhằm tiêu diệt Dân tộc Việt Nam.
Là người Việt Nam, chúng
ta phải có trách nhiệm bằng mọi cách hoá giải Quốc nạn hiện nay để giao lại cho
thế hệ sau một Tổ quốc Việt Nam tốt đẹp hơn Tổ quốc mà chúng ta đã nhận lại từ
thế hệ trước.
Xã hội biến chuyển không
ngừng, đặc biệt là tốc độ biến chuyển xã hội trong giai đoạn toàn cấu hoá hiện
nay rất nhanh đến độ khó lường trước được. Chế độ chính trị tại Việt Nam do đó sớm
muộn rồi cũng sẽ thay đổi không bằng cách này cũng bằng cách khác.
Những trang lịch sử Việt
Nam sau này chắc chắn sẽ không ca tụng ông Tổng Bí thư A, Chủ tịch B, Thủ tướng
C có được gia tài kếch sù trị giá 10 tỉ Mỹ kim mà lịch sử sẽ nguyền rủa các ông
đã không thi hành trách nhiệm của mình đối với đất nước mà chỉ biết lợi dụng chức
vụ vơ vét của công làm giầu bản thân và gia đình để mặc người dân phải sống vất
vưởng, khổ cực.
Nhưng lịch sử Việt
Nam sẽ ca ngợi các ông bà trong ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN tương tự như
lịch sử thế giới hiện nay đang ca ngợi Gorbachov và lịch sử Miến Điện sẽ ca ngợi
Chính quyền Quân nhân Miến Điện. Nếu các ông, bà vì Nước, vì Dân từ bỏ quyền lợi
cá nhân, đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Dân tộcViệt Nam, đồng thời thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ ôn hoà tương
tự như ở Miến Điện. Vì đó là điều kiện triệt hạ hệ thống tham nhũng rất hệ thống
và qui mô hiện hữu từ vài chục năm qua trên đất nước Việt Nam và đó cũng là điều
kiện để mọi tầng lớp người dân Việt hết lòng, hết sức tham gia tái kiến thiết
quê hương.
Nguyễn Hội
Tháng 11 năm 2012
Tác giả gửi trực tiếp cho Lương Tâm Công Giáo Việt Nam
[1] Nguyễn văn Minh: Giòng họ Ngô Đình giấc mơ chưa đạt.
[2] LM Trần Quý Thiện: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Với Những Bài Học
Lịch Sử.
[3] Nguyễn văn Minh: Giòng họ Ngô Đình giấc mơ chưa đạt.
[4] Có tài liệu ghi ngày 01.09.1933
[5] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 112, nhà xuất bản
Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[6] Hoàng Ngoc Thành; Thân Thị Nhân Đức: Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, Tr.198.
[7] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm,
Tr. 462-464, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[8] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 477, nhà xuất bản
Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[9] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm,
Tr. 488, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[10] Cao Văn Luận: „Bên Giòng Lịch Sử“ http://truyen.catbui.info/re.php?keng=9783
[11] Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh T.T. NGÔ ĐÌNH DIỆM; Quốc Đại:
Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 470, nhà xuất bản Thanh Niên 2003 (xuất
bản trong nước)
[12] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 521-522, nhà xuất bản
Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
[13] Vĩnh Phúc: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm,
Tr. 579, Nhà xuất bản Tam Vĩnh 2006
[14] Quốc Đại: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, tr. 549, nhà xuất bản
Thanh Niên 2003 (xuất bản trong nước)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét