LTCGVN (02.11.2013)
Khăn tang là dấu hiệu
của sự mất mát, nỗi buồn trĩu nặng, nỗi buồn đó càng “lớn” hơn nếu sự mất mát
là cha hoặc mẹ. Những thứ khác có thể kiếm lại được, dù là chồng hoặc vợ, nhưng
cha mẹ thì không thể tìm lại được. Cũng vậy, người ta có thể chọn nhiều thứ
nhưng không thể chọn cha mẹ. Vì thế chữ Hiếu rất quan trọng trong cuộc đời của
mọi người!
Ca dao Việt Nam so sánh:
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt
dây
Đờn đứt dây còn xoay còn nối
Cha mẹ mất rồi, con phải mồ côi!
Cổ tích kể rằng…
Ngày xưa, có vợ chồng nhà phú hộ nọ sinh được năm
người con gái. Nhà giàu nhưng lại không con trai, nên bao nhiêu t́ình
thương họ đều dồn vào những cô con gái. Lần lượt năm cô lớn lên, ai nấy đều
lập gia đình và đi ở riêng.
Vì các cô lấy chồng xa, nên hai ông bà phú hộ cảm
thấy nhớ con quá. Một hôm bà bảo chồng:
– Sắp tới, ông chịu khó trông nhà cửa cho tôi đi
thăm chúng một lượt, sau đó tôi lại về trông để ông đi.
– Phải đó, nhưng bà phải đi nhanh lên mới được, đừng
bắt tôi đợi lâu!
– Không được đâu, tôi tính ở lại với các con đứa nào
ít nhất cũng một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, c̣òn đi đường tổng cộng độ
vài ba chục ngày, như vậy cũng mất ngót nửa năm rồi ông ạ!
– Thôi được, thế thì bà cứ đi, bà nhớ đừng để cho
đứa nào quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề ở đó làm cho tôi mỏi ṃòn trông
đợi.
Rồi người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được vài
tháng đã thấy bà trở về, vẻ mặt buồn xo. Thấy thế, ông liền hỏi dồn:
– Cớ sự làm sao mà bà về nhanh như vậy? Có gặp điều
gì khó khăn dọc đường hay không mà vẻ mặt bà không được vui thế?
Bà phú hộ đáp:
– Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều
mạnh khỏe cả. Tôi về sớm là vì tôi muốn ông khỏi trông. Ông cứ đi một lần cho
biết.
Thấy vợ nói úp úp mở mở, ông phú hộ chẳng hiểu gì
nên cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi. Ông ghé nhà người con gái thứ nhất.
Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông hài ḷòng, nhưng con gái ông lại không được
như thế, nó chỉ chuyện trò giả lả được đôi câu rồi quay vào công việc của nó.
Đến khi chồng nó ra đồng trông coi thợ cày cấy, con
gái ông lúi húi lo việc bếp núc, cha con chẳng có dịp chuyện trò. Mãi đến gần
trưa, ông cảm thấy bụng đói cồn cào, định bảo nó dọn cho mình ăn trước như khi
còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ: “Để xem nó
đối đãi với cha nó ra sao cho biết!”. Ông thấy con gái chờ chồng về mới dọn
cơm ra. Chàng rể ông lúc ấy tuy đã về rồi mà vẫn còn bận một số công việc nên
ông phải đợi tiếp. Đến khi thấy quá trưa, con gái ông mới gọi chồng:
– Mình ơi, hãy để đó vào ăn cơm đi, cho ông già ăn
với!
Nghe con gái nói thế, ông cảm thấy không vui. Chiều
hôm ấy và liên tiếp những ngày sau cũng vậy. Ông nghiệm ra rằng con gái ông
chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì. Nếu chồng nó không
ăn thì có lẽ mình cũng phải ngồi nhịn đói”. Ở chơi được ít ngày, thấy con
gái không được vồn vã đằm thắm như xưa, ông liền từ giã vợ chồng nó mà đi đến
nhà đứa khác.
Lần này vừa đi ông vừa lẩm bẩm: “Chắc thế nào những đứa sau cũng phải khác chứ, chẳng lẽ đứa nào cũng
như vậy cả sao? Vợ chồng ta trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng
dưỡng một khi bố mẹ tuổi già kia mà!”.
Nhưng khi đến nơi, ông thấy đứa thứ hai cũng chẳng
khác gì đứa đầu. Nghe bố đến thăm cũng tiếp đãi gọi là cho tròn bổn phận rồi
lại loay hoay vào công việc nhà chồng, bỏ mặc ông chẳng chút quan tâm.
Lần lượt ông đi thăm đủ cả năm cô con gái yêu quý
nhưng chẳng đứa nào là không say mê với công việc của nó, chẳng đứa
nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng, ông chép miệng:
– Vậy là con gái khi bước về nhà chồng thì chẳng
c̣òn là con mình nữa. Nó xem chồng trọng hơn bố mẹ nhiều.
Nghĩ vậy nên ông quày quả trở về. Ông tính lại thời
gian thăm con cả đi lẫn về còn ngắn hơn cả bà. Khi về, ông gọi vợ lại và nói:
– Thế là mấy đứa con gái có cũng như không, chẳng hy
vọng gì vào chúng nó đỡ đần mình tuổi già nữa rồi. Bây giờ bà để tôi đi kiếm
một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà
nó nghĩ sao?
Vợ phú hộ trả lời:
Vợ phú hộ trả lời:
– Thôi ông ạ! Đừng có đi mà mất công, nhọc xác. Con
đẻ rứt ruột ra mà chúng không đoái không hoài thì con nuôi có làm được gì?
Phú ông liền bảo:
– Trên đời này có kẻ tốt người xấu, đâu phải ai cũng
như ai, bà đừng ngại.
– Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan
phụng dưỡng, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu.
Phú hộ bèn đóng vai một ông già nghèo khó rồi ra đi
từ làng này đến làng khác, đến đâu ông cũng rao:
– Ai mua cha không? Có ai mua cha thì ra mà mua! Mua
ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi!
Mọi người nghe ông già rao như vậy thì tưởng ông điên.
Có người còn vui miệng nói:
– Mua lão ấy để về nhà mà hầu ư? Rồi đây lão ta trăm
tuổi qua đời chả được đồng nào còn phải lo tống táng nữa sao? Thà là nuôi một
người đầy tớ còn hơn!
Tuy có nghe nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú ông vẫn
không nản chí, vẫn đi hết xóm này đến ấp kia, miệng rao không ngớt:
– Có ai mua cha không này?
Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông phu
nghèo, nghe có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ:
– Hai vợ chồng mình mồ côi từ thuở bé, chưa bao giờ
được hưởng tình cha con, lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua
ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm cho vui cửa vui nhà.
Thấy vợ bằng lòng, anh chàng chạy ra đón ông già vào
và nói:
– Ông định bán bao nhiêu tiền?
– Năm quan không bớt.
Anh chồng liền thưa:
– Thú thật với ông, nhà tôi nghèo quá, muốn mua ông
nhưng không sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo nhà tôi đi vay xem
sao.
Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát
rồi lại quay về, nhưng số tiền vay được cùng với tiền nhà gom lại cũng chỉ có
hai quan. Anh chồng liền nói:
– Thôi thì ông thông cảm cho, hai ngày nữa mời ông
trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền.
Hai ngày sau, vợ chồng anh nông phu trao tiền cho
ông, mời ông vào nhà “cha cha, con con” rất thân tình. Phú hộ thấy đầu tóc
người vợ bây giờ biến đi đâu mất liền hỏi:
– Này con ơi, tại sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt
đi như vậy?
Anh chồng tần ngần đáp:
– Chẳng giấu gì cha, nhà con quá nghèo không đủ tiền
mua, mà nếu không mua thì biết có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc
đi bán mới có đủ số tiền năm quan đó.
Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng nông phu tỏ ra
rất niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông
vẫn không cho biết gốc tích quê quán thật của mình, hằng ngày vẫn cứ ăn no ngủ
kỹ, đôi lúc lại kêu nhức đầu, mỏi lưng, bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm
thầy chạy thuốc.
Mặc dầu vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước săn sóc không
bê trễ. Cứ như vậy được vài tháng sau, nhà họ đã nghèo lại càng mạt thêm.
Hai vợ chồng phải cố gắng làm thêm để nuôi cha, có
bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình hình như vậy kéo dài
nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đã kiệt. Tuy
vậy, họ vẫn không hề lộ vẻ mỏi mệt, cố làm vui lòng cha già. Một hôm, hai vợ chồng ngủ dậy đã thấy người
cha nuôi khăn gói chỉnh tề, ông bảo họ:
– Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta!
Vợ chồng anh nông phu trố mắt nhìn nhau, tưởng ông
phát điên, nhưng sau đó lại thấy ông phú hộ giục bảo:
– Làm con thì phải vâng theo cha mẹ, chớ
có sai lời. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn thì cứ việc đi, còn cái
nhà này ọp ẹp chẳng đáng bao nhiêu đừng tiếc nữa.
Vợ chồng nghe thế thì biết ông nói thật, không dám
cãi, đành nhặt nhạnh một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa
đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông ban ngày lần hồi xin ăn, tối tối lại vào
nhà người xin ngủ nhờ, nhưng họ vẫn vâng lời, không chút phân vân.
Ba người đi xin ăn như thế được năm ngày, cuối cùng
đến trước một ngôi nhà ngói tường vôi, ông vui vẻ nói:
– Các con ơi, đã đến nhà ta rồi!
Bà phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo
vợ:
– Bà nó này, đây mới thật là con của chúng ta đấy!
Bấy giờ vợ chồng anh nông phu mới ngớ người ra, biết
được cha mẹ nuôi mình là một nhà giàu có. Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ
mình, và từ đó hai vợ chồng bước vào một cuộc đời sung sướng.
Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần
đất xa trời, ông bèn làm tờ di chúc để phần lớn gia tài cho đứa con nuôi, đoạn
ông gọi vợ đến trối rằng:
– Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con
gái biết tin đấy!
Ông nói tiếp:
– Nếu chúng nó có nghe ai mách mà về đây, chưa biết
chừng tôi sẽ “bứt néo” trỗi dậy cho mà coi. Việc để tang thì đứa con
trai cứ theo cổ tục, cắt tóc, đội mũ, quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình
chịu cực chịu khổ với cha mẹ thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu thì bà bảo
nó khỏi cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã hy sinh mái
tóc dài của nó để mua cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ.
Nhưng khi tẩm liệm cho chồng xong, bà phú hộ vì nặng
lòng nên cũng cho người lén báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà
đón ở cổng, thuật lại lời trối của cha cho chúng nghe và bảo chúng đừng có vào
nhà, kẻo có sự chẳng lành.
Năm đứa con gái hối hận lắm, nhưng việc đã rồi biết
làm sao? Khi đưa linh cữu cha, chúng đòi đi đưa cho bằng được. Khuyên can con
mãi không xong, cuối cùng bà buộc lòng phải xé cho chúng ngoài khăn tang ra còn
thêm mỗi đứa một vuông vải cho các con gái che mặt lại để mong linh hồn bố
chúng khỏi biết.
Từ đó, người ta bắt chước để tang theo cách gia đình
này đã làm: Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng chuối như cổ tục, con
dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang, lại miễn cả che mặt. Còn con gái
ngoài khăn tang còn có thêm một mảnh vải che mặt.
Lời
bàn: Chuyện đời lắm cảnh éo le, cười ra nước mắt. Thật
đáng buồn cho cái thế thái nhân tình biết bao! Đáng buồn hơn là chuyện đó lại
xảy ra ngay trong gia đình, giữa mối thâm tình nhất của cuộc đời này. Đúng như
ca dao nói: “Cha mẹ nuôi con biển trời
lai láng, Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày!”.
Cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước viết ca khúc “Ơn Nghĩa
Sinh Thành” với những ca từ thật đẹp và đầy tính giáo dục: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Em ơi, hãy nhớ năm xưa, những
ngày còn thơ, công ai nuôi dưỡng. Công đức sinh thành, người hỡi đừng quên. Công
cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm
người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu, anh nên
người tài ba? Hãy nhớ công sinh thành, vì ai mà có ta?...”.
Cha mẹ nuôi dưỡng con cái nhưng chẳng mong được đền
đáp, nhưng bổn phận làm con (dù trai hay gái) phải biết sống cho trọn Đạo Hiếu
– một trong những giới răn của Đạo Làm Người. Dù là ai, không có niềm tin tôn
giáo hoặc theo bất cứ tôn giáo nào, trước tiên phải “làm người”, phải giữ Đạo
Làm Người – trong đó có luật sống có Hiếu. Thật vậy, không gì tốt hơn là “có
hiếu”, và không gì tệ hơn “bất hiếu”, vì không ai lại không có cha mẹ. Ca dao
có nhiều câu nói về Đạo Hiếu đối với song thân Phụ Mẫu. Chẳng hạn:
Làm trai đủ nét trăm đường
Trước tiên điều hiếu, đạo
thường xưa nay
Công cha, đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày
ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ
hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp
lạnh giữ phần đạo con
Hoặc như cách phân tích của ca dao:
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho
bõ những ngày ước ao
Rất giản dị mà sâu sắc, tưởng chừng rất dễ mà lại
khó thực hành vuông tròn. Bất kỳ thứ gì mất thì cũng hầu như có thể thay thế
bằng thứ khác, nhưng cha mẹ thì không có gì khả dĩ thay thế, một khi các ngài
đã khuất bóng. Biết ân hận là điều tốt, nhưng chính nỗi ân hận đó sẽ cắn rứt
lương tâm những nghịch tử suốt đời, không ngừng phải khổ tâm.
Con người là sinh vật cao cấp nhất thì phải có văn
hóa, mà văn hóa cao cấp nhất hẳn phải là chữ Hiếu!
Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Hc 3:1-16). Chính Thiên Chúa cũng luôn tôn trọng chữ
Hiếu, nên Ngài đặt luật “thảo kính cha mẹ” là giới răn thứ tư trong Mười điều
Răn. Chính Thiên-Chúa-làm-người là Con Trẻ Giêsu, sau ba ngày “lạc” cha mẹ, đã
theo cha mẹ “trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài”
(Lc 2:51).
Con Thiên Chúa đã nêu
gương giữ bổn phận là thực hiện chữ Hiếu đối với cha mẹ.
TRẦM THIÊN THU
Tác giả gửi trực tiếp cho LTCGVN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét