Chương IX
PHAOLÔ và các thư Philêmôn, Côlôssê và Êphêsô
Tóm lược
THƯ PHILÊMÔN
Đây là thư ngắn gọn, không mấy tình tiết nhưng vẫn có thể do thánh Phaolô viết vào cùng lúc với thư Philípphê, từ Êphêsô. Ôsênimô là tay nô lệ thuộc quyền sở hữu của Philêmôn. Thánh Phaolô đề nghị Philêmôn trả tự do cho anh và yêu cầu cộng đoàn nhận anh làm thành viên chính thức. Yêu cầu này, không do nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của dân con Đạo Chúa thường làm thế. Bởi, trước thời Chúa Quang Lâm đến lại cũng không lâu, các tín hữu theo chân Chúa vẫn sống năng nổ và không đòi mọi người phải đổi thay tương quan mình đang có với xã hội ở bên ngoài. Thế nên, thánh Phaolô đã nhân danh tự do không hạn định Chúa ban cho những người đi theo Ngài, mới yêu cầu Philêmôn trả tự do cho nô lệ của Philêmôn.
THƯ CÔLÔSÊ VÀ ÊPHÊSÔ
Hai thư đây, có thể không do thánh Phaolô đích thân đọc cho thư ký ghi, nhưng có lẽ do người học trò nào đó thuộc cộng đoàn Phaolô đã viết lên, vào thời sau. Có thể nói, đây là thư viết theo tinh thần được thánh Phaolô khởi xướng, xuất hiện vào thời “Hậu-Phaolô” nghĩa là: người viết thư đã thêm vào đó nhiều lý thuyết cũng như linh-đạo ở trong thư. Nói cách khác, hai thư đây không nhất thiết do tự tay thánh Phaolô ghi ra, nhưng vẫn hàm ngụ tư tưởng do thánh-nhân chủ trương một cách rất khôn ngoan.
Sự thực thì, Đức Khôn ngoan sáng láng của Thiên Chúa là trọng tâm ý nghĩa và mạch lạc nơi thọ tạo. Bởi, ở nơi thọ tạo, đã thấy xuất hiện sự đầy đặn/trọn vẹn (tiếng Hy Lạp gọi là Pleroma) tức: đặc trưng hiển hiện nơi Đức Kitô. Xem như thế, thì Đức Kitô đã hiện hữu vào giai đoạn trước cả khi mọi sự được tạo dựng. Ngài là mấu chốt cho thọ tạo hiện hữu vì Ngài và cho Ngài. Và, Đức Khôn ngoan sáng láng đã hiện diện nơi Ngài, vào lúc sớm. Bởi, Ngài là “đầu não” cho thọ tạo được như thế. Với con người, Ngài là “Ađam” thứ hai, nhưng lại là “Ađam” rất thực hữu. Với nỗi chết, Ngài đi đầu trong Phục sinh, trỗi dậy rất tự do. Nơi nhân loại, xác thể vật chất là ảnh hình của “Thân mình” Ngài. Loài người có được “Thân Mình” Ngài để rồi sẽ biến đổi nhờ “Thân Mình” ấy, ở Tiệc Thánh. Công việc của loài người, ở cõi thế này, là phải nâng nhấc mọi người và mọi sự lên với Đức Kitô, Đấng duy nhất Tạo dựng nên con người mà tiếng Hy Lạp gọi là anakephalaisasthai. Thư Êphêsô gọi sự việc này là sự “trọn vẹn/tràn đầy” Thiên Chúa đã tỏ bày ra bên ngoài. Sự việc ấy, hợp cùng với con người để ngợi ca tôn vinh sự cao cả Chúa thắng vượt mọi sự, bởi Ngài là Đấng Tạo dựng nên mọi sự và Ngài sẽ còn làm thế, trong mai ngày.
“Trong số 27 tín hữu dấn bước theo Chúa được liệt kê trong danh sách, có 10 vị là bậc nữ lưu, như: chị Phôêbê, Priscilla, Maria, Giu-ni-a, Triphêna, Triphôsa, Persis và một vị bảo mẫu ẩn danh. Ngoài ra, còn có cả Giu-li-a và một chị khác không rõ tên tuổi, vẫn sinh hoạt đều đặn. Còn lại, là 17 vị kia rặt nam giới…” (Xem Crossan & Reed, In Search of Paul)
CHI TIẾT LỊCH SỬ
Thư Philêmôn, Êphêsô và Côlôsê được coi như “thánh thư của người viết khi bị giam giữ” và mọi người cứ nghĩ rằng thánh Phaolô viết lên các thư này vào lúc ông bị tống ngục ở La Mã. Đành rằng, nội dung các thư trên đều kể thánh Phaolô bị cầm chân/giam giữ vào buổi sớm. Kể từ lúc ông lưu lại ít ngày sống ở Xêdarê hoặc Êphêsô. Hẳn ai cũng biết: ngay khi chào đời, thánh Phaolô đã là công dân thành La Mã –ông không chỉ là người thuộc Đế quốc này mà thôi, nhưng ông còn là người từng sinh sống ở Rôma nữa. Điều đó khiến ông trở thành nhân vật chủ chốt, hơi na ná giống kiểu mà người Ấn Độ gọi là KBE. Thánh Phaolô sống ở Rôma suốt hai năm trời quần quật, kiếm sống bằng ngành nghề mình đã chọn.
Ở đây, tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc để hỏi: không biết tại chốn thành đô chộn rộn này, ông có được phép hành nghề khâu/may bạt/lều như khi trước không? Thật ra, thì sách Công Vụ, chả có chỗ nào nói những chuyện đại để như thế, và sách này không đả động gì đến chuyện thánh-nhân đích thân phải ra toà, bị kết án hoặc là phạm nhân từng đứng trước pháp đình chịu xử án. Về thời gian xảy ra các vụ việc như thế, có thể cũng qua nhanh trước khi ông bị truy tố, trên thực tế. Thật sự, thì chẳng ai biết rõ tháng ngày nào thánh-nhân đã bỏ mình tại Rôma không một lời từ biệt.
THƯ PHILÊMÔN
Diễn giải thư Philêmôn cách riêng, tác giả Murphy O’Connor đã có lần từng viết:
“Yêu tố chủ chốt trong công cuộc mục vụ của thánh Phaolô, là niềm xác tín ông vẫn có, tuy ông không áp đặt quyết định nào mang tính đạo đức với dự tòng bằng lệnh truyền trực tiếp gửi cho họ. Nhưng, thánh Phaolô vẫn ưa thích kêu gọi lòng trắc ẩn của Philêmôn, nên mới thêm: “Không có sự ưng thuận của ông, tôi đã không định làm gì cả, kẻo việc nghĩa ông làm, lại ra như việc cưỡng bức, chứ không bởi tự ý mình làm.” (Phil 1: 14).
Muốn ép buộc ai làm gì, dù họ có ưa có thích hay không, chỉ một cách hay nhất là biến người ấy thành phạm nhân, nhốt giam trong tù. Có làm thế, mới loại trừ được tự do khỏi nơi họ. Ép buộc một ai dù có để họ làm việc nghĩa đi nữa, cũng phản chống lại bản chất tự do của người đó và của Đạo Chúa nữa. Chỉ hành xử nào mang tính tự do chọn lựa mới có giá trị đạo đức, thôi. Chả thế mà, thánh Phaolô lại đã kêu gọi hết mọi người, rằng:
“Anh em hãy cho đi tùy tâm trạng của mình, không cau có, cũng chẳng miễn cưỡng, vì có hớn hở mà trao ban/hiến tặng, thì Thiên Chúa mới ưa chuộng.”
Một khi con người không còn được ban cho mình ơn cứu chuộc cách tự do, thì con người sẽ chỉ biến thành nô lệ cho tội lỗi hoặc Lề luật, thôi. Người ngoài Đạo, thường được khích lệ làm việc gì để mọi người vui lòng cách chung chung, nên mới bị lôi cuốn vào với giá trị tạm bợ, chóng qua, tức những thứ tầm thường, dễ phạm lỗi. Và, người Do thái lại cứ như người mù chỉ biết tuân theo lệnh truyền của Lề luật, rất Torah mà thôi. Những người như thế đều bị gộp vào kế hoạch định sẵn, để rồi họ sẽ bị guồng máy luật lệ khống chế, khuynh loát. Trong khi đó, thánh Phaolô lại khẳng định với họ rằng: “Chính vì muốn cho ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng ta! (Gal 5:1) Với thánh Phaolô, cũng như với mọi người trong cộng đồng dân Chúa, việc đưa ra mệnh lệnh có liên quan đến các hành xử mang tính luân lý/đạo đức là tạo cớ để tín hữu Đạo Chúa quay trở về với tình trạng chưa có hoặc không có ơn cứu chuộc.
Đây cũng là lý do khiến thánh Phaolô đã không đích thân chọn lựa cá nhân người nào để trao cho người ấy phần vụ nắm quyền lãnh đạo giáo hội ấy. Làm như thế, khác nào áp đặt lệnh truyền nào đó đối với họ. Thay vì thế, thánh Phaolô lại vẫn muốn các vị biết “trân trọng những người đã và đang sinh hoạt vất vả/cật lực trong cộng đoàn, hầu dẫn đưa họ về với Chúa. Nên thánh-nhân đã khuyên nhủ bằng những lời rất xác thực:
“Hỡi anh em, chúng tôi xin anh em tỏ lòng tri ngộ những người có công lao khó nhọc nơi anh em, những người chủ sự anh em trong Chúa và sửa bảo anh em. Đối với họ, hãy hết lòng kính trọng, mến yêu, vì công việc của họ. Hãy ở hoà thuận cùng nhau.” (1Th 5: 12-13)
Xem thế thì, các vị không là người được lựa lọc/bầu chọn hoặc chỉ định/mời gọi, nhưng rõ ràng chỉ do công việc mà các vị đã làm thôi. Chẳng hạn như, ở Côrinthô, chính gia nhân của Stêphana là những người thuộc vùng A-Kai-a, tức những người đi tiên phong trong số các người hồi hướng về với Đạo. Hệt như thế, thánh Phaolô đã nhận Gaius ở Côrinthô, Phôêbê ở Cenchrae và vợ chồng Prisca, Aquila và những vị có chân trong ủy ban thành lập cộng đoàn gồm có Philêmôn, Ápphia và Akhipô (Plm 1-2). Cũng chẳng thành vấn đề nếu các vị này làm việc cách riêng rẽ hay hợp lực, là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ.
Quan hệ với Philêmôn rõ ràng được coi như ví dụ cụ thể về thái độ của thánh Phaolô. Thánh-nhân không ra lệnh cho Philêmôn làm bất cứ điều gì. Nhưng, bằng giọng điệu êm đềm, từ tốn thánh-nhân muốn thuyết phục Philêmôn để ông tự ý làm công việc lành/thánh ấy. Thư ở đây, là lề lối sinh hoạt rất sắc bén của Hội thánh thời sau này.
THƯ CÔLÔSÊ
Côlôsê là thủ phủ toạ lạc tại Phrygia, nơi vùng thung lũng Lycus gần Laođixê và Hiêrapôlis. Cộng đoàn ở đây không do thánh Phaolô sáng lập, nhưng do Êpápphra tạo nên. Nội dung thư, là về sức mạnh tinh tú có quyền phép trên con người, từ đó có nhu cầu khắc khổ dẫn đến đức Khôn ngoan sáng láng. Điểm nhấn đây, là đặt nặng vai trò hàng đầu của Đức Kitô. Và, Hội thánh là như vũ trụ nhân trần nay đã có Đức Kitô Đấng làm đầu. Hội thánh, là chốn không gian trong đó các kẻ tin được bảo bọc khỏi uy lực của vũ trụ; thế nên, Hội thánh là chốn “Thiên đường” dành cho những kẻ nhận thanh tẩy được trỗi dậy từ cõi chết và sống đạo đức, chức năng vẫn rất mới. Thánh Phaolô được coi là nhân vật trung gian giữa vũ trụ và những người sống ở đây.
Phần lớn các nhà chú giải đều thấy khó mà gán thư Côlôsê cho tác giả các thánh thư rất tốt lành là thánh Phaolô. Thông thường thì, các vị vẫn coi thư này là do học trò của thánh nhân là tác giả viết vào thời Hậu-Phaolô. Bởi:
* Lời lẽ cũng như âm giọng rất khác với thủ thuật bút chiến thánh Phaolô vẫn sử dụng;
* “Đối phương” đây, mang sắc thái lờ mờ chứ không như thư do thánh-nhân viết;
* Các câu trong thư được rút từ thư Phillípphê và Philêmôn, tức: thư sao chép nhái lại.
Theo tôi thì, chủ đề kết hiệp với Đức Kitô trong thư Colôsê và Êphêsô mang tính chất linh đạo/thần bí hơn các thư do thánh Phaolô đọc cho thư ký viết. Thư thánh Phaolô đượm tính chất “chính trị” nhiều hơn các thư này. Nói thế nghĩa là: người viết thư đây có quan điểm/lập trường phản chống tính độc tài cách công khai như Đức Kitô từng làm. Ở thư Côlôsê, đó là sự kết hợp linh đạo nhiều hơn chứ không hề kết nối với lập trường nói ở trên.
Thư Côlôsê mở đầu bằng bài vịnh ca mang tính chất Kitô luận (Côl 1: 15-20). Có lẽ đây là bài vịnh vẫn được hát vào thời tiên khởi, gồm hai tiểu khúc. LỜI đã xâm nhập thế giới vũ trụ. Và, Đức Kitô chính là LỜI thấy ở đây.
15. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình 18. Ngài là đầu,
là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. là trưởng tử giữa các vong nhân,
ngõ hầu trong muôn sự,
Ngài là đệ nhất vô song.
16. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành
chốn trời cao và nơi dương thế
vật hữu hình, vật vô hình,
19. Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả
Viên mãn đậu lại trong Ngài 20. Và đã giảng hoà cả vạn vật
Nhờ Ngài và cho Ngài
đã ban lại bình an
nhờ bửu huyết đổ ra
nơi Thập giá của Ngài
cho mọi vật ở dưới đất hay trên trời;
17. Ngài có ưu thắng trên mọi sự
và mọi sự tồn tại trong Ngài.” (Côl 1: 15-20)
Tiểu khúc đầu, phù hợp những điều mà người Hy Lạp và Do thái nói về “LỜI”. LỜI đã biến giải Đức Khôn ngoan sáng láng của người Do thái thành tư tưởng của người Hy Lạp. Các bản văn sách Khôn ngoan đã gọi Đức Khôn ngoan là sự Sáng láng của Thiên Chúa. Xem như thế, ta hiện hữu trước cả thời Địa Đàng. Và theo đây, thì Đức Kitô, có trước cả mọi sự và Ngài là tác nhân của tạo dựng. Thọ tạo được dựng nên cho Ngài. Ở đây, Đức Kitô đích thực hiện hữu trước khi có tạo dựng và sinh hoạt của Đức Kitô lại có trước cả vào lúc thọ tạo thoạt hiện hữu. Đức Giêsu hiện hữu ngay trong địa hạt Thần Thiêng Thánh Ái.
Đức Kitô là Trưởng Tử trỗi dậy từ cõi chết, là Ađam Thứ Hai và nơi Ngài muôn vật được tạo thành, rất ổn định. Việc này lại đã xảy ra ở thập tự. Tính chất “đầu hết” của Đức Kitô được hạn chế là để cho con người và sau đó là cho Hội thánh, tiếp đến là cho người nhận thư.
Ở đây cũng có tình trạng dao động về ý nghĩa của Thân Mình Chúa. Chính thánh Phaolô cũng từng nói: “Thân xác của ta là Thân Mình Đức Kitô”. Thánh-nhân lại cũng bảo: bánh ta ăn vào người ở Tiệc Thánh đó chính là Thân Mình Đức Kitô. Thánh Phaolô còn khẳng định: cùng nhau, ta trở thành cùng một Thân Mình Đức Giêsu, và mỗi thành phần trong cơ thể có trọng trách và phần vụ riêng rẽ. Xem ra, khi thư Êphêsô nói đến Thân Mình Đức Kitô tức Hội thánh, thì ở thư Côlôsê đây, Đức Kitô bao choàng cả thể xác như ta đã từng nghe biết. Thật không rõ, Đức Kitô là Đầu của Thân mình này thôi hoặc của toàn thể vũ trụ nhân trần. Tóm lại, Anakephalaiosasthai là nâng nhấc ta vào với Ngài. Và như thế, Thân Mình Chúa còn lớn rộng hơn Hội thánh nữa.
THƯ ÊPHÊSÔ
Về thư này, xem ra nhiều người vẫn cho rằng: thánh Phaolô không phải là tác giả, dù thánh-nhân đã sống rất nhiều ngày ở nơi đây. Đúng ra, thư Êphêsô đây mang tính cách của một thư luân lưu/mục vụ về qui cách. Thư Êphêsô rút tỉa được khá nhiều điều lấy từ thư Côlôsê. Đọc thư, ta không thấy dấu có ám chỉ nào về sự Công chính như thánh Phaolô từng đề cập, nhưng lại nói nhiều hơn về cứu chuộc và sự thứ tha mọi lỗi tội, tức ngôn từ mà thánh Phaolô đặc biệt không sử dụng. Ơn cứu chuộc đã thành toàn và bao gộp hết mọi người. Hội thánh, vốn là thân mình Chúa gồm những người từng nhận được ơn lành cứu chuộc ấy. Và, Hội thánh được thiết lập không ở trên Đức Kitô nhưng trên các tông đồ và ngôn sứ. Ơn cứu chuộc, là xuất từ quyền uy sức mạnh lạ lùng ở bầu trời và nơi khí quyển. Và, ơn cứu chuộc đã như thể vượt quá khỏi tầm tay do con người họ kiểm soát. Người được ơn này vẫn thuộc về Đức Kitô Đấng từ trời đến, nhưng lại không sử dụng chủ đề bè rối như phần chính yếu của Thiên Chúa xuống với gian trần.
Phần đông các nhà phê bình đều xem xét thật kỹ thư Êphêsô trước khi xem ai là tác giả thực thụ của thư này. Các đặc trưng ở trong thư, gồm có:
- Văn bản xưa cũ nhất không đề tên người nhận;
- Cụm từ “bí nhiệm” được sử dụng thường xuyên hơn các thư đích thực do chính thánh Phaolô đọc cho viết lại có ý nghĩa khác hẳn. Ở thư Êphêsô, cụm từ “bí nhiệm” lại có nghĩa là kết hợp mọi người và mọi sự vào với Đức Kitô;
- Điểm nhấn ở thư Êphêsô là về Phục Sinh, nhưng lại ít nói về thập giá;
- Tác giả thư, có cái nhìn tự mãn nguyện về vai trò tông đồ mục vụ của mình, còn thánh Phaolô lại chả bao giờ muốn làm như thế;
- Trong thư, không thấy chỗ nào nói về giai đoạn khó khăn mà thánh Phaolô gặp;
- Israel là chuyện đã qua trong quá khứ và lề luật nay bị Đức Kitô loại trừ;
- Hội thánh toàn cầu vẫn chỉ là một và không mang ý nghĩa một giáo hội sở tại;
- Cung cách phụng vụ ở thư có vẻ hơi khoa trương –nhịp điệu thì như thể đang tiến dần về phía thung lũng lấn chiếm từng gang tấc;
- Thánh Phaolô quan niệm hôn nhân như hành động để xoa dịu kẻ yếu hèn, trong khi tác giả đây lại tôn vinh nó như tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và Hội thánh;
- Đức Kitô được coi như viễn tượng về vũ trụ, bởi Ngài ngự trị chốn Thiên đường;
- Thư đây có nhiều câu lấy từ thư Côlôsê, theo kiểu lù mù bạ đâu lấy đó.
Vậy thì, ai mới thực là tác giả thư Êphêsô?
Theo Holtmann, tác giả thư Côlôsê và Êphêsô vẫn chỉ là một.
Còn Goodspeed lại cho rằng: thư Êphêsô là lời nói đầu viết cho tuyển tập gồm các thư được thánh Phaolô gửi đi các nơi.
Goguel lại nghĩ: thư Êphêsô là phần diễn giải các thư thực sự do thánh Phaolô viết;
Boismard vẫn cho rằng: thư Êphêsô do thánh Phaolô viết từ Rôma, sau đó được một vị nào đó quen thuộc với thư Colôsê phát tán rộng thêm ra. Tác giả Boismard lại vẫn bảo: thư Colôsê là phần diễn đạt nhằm gửi cho các đồng đạo sống ở Laođixê như có nói trong thư Côlôsê đoạn 5 câu 16.
Muddiman có nói: thư Êphêsô lúc đầu là do thánh Phaolô viết nhưng không phải ở Êphêsô, như một thư mục vụ gửi giáo đoàn theo truyền thống Phaolô như đã được phổ biến rộng rãi.
Tác giả Wansborough lại vẫn suy rằng: các vị trong cộng đoàn Phaolô đã sử dụng giáo huấn nói trong thư như khuôn vàng thước ngọc, hầu mừng kính thiết lập cộng đoàn. Tác giả chuyển đạt lối diễn giải truyền thống Phaolô theo phương án giáo huấn người đọc. Tác giả đây trở thành loại hình của một Phaolô vào thời Hậu-Phaolô, thế cũng nên.
CHÚC LÀNH Ở THƯ ÊPHÊSÔ
Lời lẽ trong thư Êphêsô ở đoạn 1 câu 3-14 và các đoạn sau xem như lời cầu mà tác giả James Dunn gọi đó là “Kitô-luận làm nổ tung đầu óc người đọc.”
Chúc lành trải rộng cả vào lúc trước khi thế giới được tạo dựng, kéo dài mãi mãi động thái của nó. Lời cầu, thấy ở thư Êphêsô mô tả Đức Giêsu trụ trì chốn thiên đường. Điểm nhấn của thư đặt nơi quyền uy lướt vượt mọi sự để tôn Ngài lên trên đó.
Trọn vẹn
Theo từ vựng, điều này mang ý nghĩa của khoang chứa trên tầu, hoặc chỉ về dân số sống tại thị trấn nào đó, hoặc nêu rõ nội dung trong sách hoặc trong thư. Thư Galata sử dụng lời này vào nhiều lúc. Còn với thư Côlôsê và Êphêsô, thì ý tưởng đề ra là Thiên Chúa đã lấp đầy trái đất cách trọn vẹn, có Đức Khôn ngoan hiện diện ở khắp chốn.
Triết lý của nhóm Khắc Kỷ, cho thấy nguyên lý thần linh thánh ái ngập tràn vào tất cả và tất cả được lấp cho đầy. Thư Côlôsê mang ý nghĩa khá thụ động ở chỗ: Thiên Chúa muốn mọi sự tràn đầy vẫn thấy có nơi Người. Thư Êphêsô, có nghĩa chủ động hơn, khi bảo rằng: Đức Kitô chủ động trong tâm can ta và nhờ đó ta được lấp đầy bằng sự trọn vẹn của Thiên Chúa, bằng LỜi. Từ đó, tất cả chúng ta sẽ nên toàn hảo, có sự tràn đầy trọn vẹn của Đức Kitô.
Ơn cứu thuộc ở thư do thánh Phaolô viết, chỉ xảy đến vào lai thời; nhưng thư này, ơn Chúa đã thắng vượt cả thời gian. Thư Rôma do thánh Phaolô đích thân đọc cho thư ký viết, thì người ngoại giáo được ghép vào cây ô-liu của Israel. Còn thư này, việc tháp ghép sẽ xảy ra trong tương lai, mai ngày thôi. Hình ảnh chính được thánh-nhân sử dụng là bức tường thành. Tường chống đối/đố kỵ đã vỡ đổ…
TƯ-DUY DO-THÁI VÀ HY-LẠP
Thật dễ thấy trong thư Côlôsê và Êphêsô, người đọc có được chủ đề gần gũi với tư-duy Hy Lạp. Có người bảo: chủ đề đây, cũng xa vời tư tưởng Do thái. Theo tôi, thì chủ đề trong cả hai thư được nối kết với Đức Khôn ngoan và LỜI. Chủ đề, tác giả muốn nói, là: đặc trưng của triết thuyết Platô, khá trung hoà.
Tôi xin được gợi ý ở đây, là: nếu quả như thế, thì tác giả hẳn cũng nói đến thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ nhất, sau Công nguyên. Và chủ đề này cứ ẩn hiện dưới lớp mặt của bản văn. Có vị, như D. Boyarin lại cho rằng: Lời nói đầu của thánh Gioan mang tính gợi nhớ như thế. Có lẽ ta cũng nên nghiên cứu xem lời nói đầu này có phù hợp với ý trong thư Côlôsê và Êphêsô không. (Xem Daniel Boyarin, The Gospel of Memra: Jewish Binitarianism and the Prologue to John, Harvard Theological Review, 2001, 243-284)
Thông thường ta lại vẫn nghĩ rằng Đạo Chúa và Do-thái-giáo tách rời nhau rất sớm; và nền thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI trong Đạo Chúa không nói gì nhiều về Do-thái-giáo ở Palestin. Một số sử gia nay bác bỏ lối biện luận này.
Thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI nhập chung làm một với thế giới của người Do thái ở thế kỷ đầu. Đây là lẽ thường tình theo lối tư-duy Do thái. Bởi, ít nhất cũng có một hoặc nhiều nhóm/phái Do-thái-giáo có trước khi Đạo Chúa được lập ra; thế nên, chẳng lạ gì khi thấy các vị đều chủ trương sử dụng cụm từ Thiên Chúa (theos) khi đề cấp đến Đức Khôn ngoan và LỜI.
Với truyền thống ngoài Đạo thời đó, các vị đã bắt đầu suy tưởng về Thiên Chúa lưỡng-vị nếu không muốn nói Ba Ngôi thì ta chỉ nói Thiên Chúa Ngôi thứ hai vô hình vô dạng có danh xưng là LỜI, là Memra; là, Đức Khôn Ngoan, Con Chúa.
Mãi về sau, Do-thái-giáo của các thày tư tế mới có phản ứng đối chọi lại chủ thuyết Hy Lạp.
CÁC CHỦ ĐỀ TRONG VĂN CHƯƠNG DO THÁI
Thần học Do thái và Hy Lạp nói về Đức Khôn ngoan và LỜI thấy rõ trong tiếng Hy Lạp Philo Judaios. Theo thuyết này, Đức Khôn ngoan/LỜI được nối kết với Sự Sáng. Đức Khôn ngoan/LỜI, là Thiên Chúa nên có Chúa ở đó.
Bằng chứng thấy được ở các văn bản dịch từ tiếng Aram của các dịch giả hấu hết là tư tế, thì Đức Chúa có danh xưng: Memra/Shekinah/Kabod đích thực là Thiên Chúa, Đấng Bản Vị.
LỜI TRONG TIN MỪNG THÁNH GIOAN
Dẫn nhập Tin Mừng, thánh Gioan giảng giải và diễn nghĩa, chứ không chủ ý ca tụng, thờ lạy. LỜI, là những điều được kể về thời khởi thủy của nhân loại ở sách Sáng Thế. Là, diễn giải kể truyện chứ không là bài vịnh ở phụng vụ. Là, bài chia sẻ ở hội đường tựa như lời nói đầu thôi. Là, văn chương tư tế chứ không là vịnh ca, khúc hát rất thăng trầm. Không là bài thơ, nhưng là truyện kể “có đầu có đũa” theo thứ tự thời gian xảy đến. Đó cũng là bài giảng dựa vào kinh sách rút từ Ngũ thư có trích thơ văn từ các sách tiên tri và lề luật, đặc biệt là Văn Chương ở sách Cách ngôn.
Văn bản về Sáng Thế là sách Khởi nguyên Chương 1 câu 1-5. Còn, văn bản về Đức Khôn ngoan là đoạn sách Cách ngôn chương 8 câu 22-31. Vịnh ca Khôn ngoan không là khuôn mẫu qua đó thánh Gioan dùng để viết Tin Mừng nối kết với văn chương tư tế. Ở văn bản này, người viết đã sử dụng thoải mái các nhân vật, từ ngữ và chất lượng của thần linh khác. Điều này bao gồm nhận thức về Đức Khôn ngoan được nhân-cách-hoá như LỜI ở phần dẫn nhập Tin Mừng thánh Gioan. Đây là những gì xảy đến cả vào lúc có trước thời Đạo Chúa ra đời, và rút từ thế giới tư tưởng bình thường của Do-thái, tức thần học về LỜi như hiện trạng.
“Từ khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất, và đất thời trống không mông quạnh”. “Và rồi Thiên Chúa ở bên con người.” “Ở với Thiên Chúa là Đức Khôn ngoan.” “Và sau đó, Đức Khôn ngoan xuất hiện ở dướt đất và sống với con người.”
Tin Mừng thánh Gioan, dẫn con người biết sử dụng tất cả các thứ này. Chính thần thoại về sự bất mãn của Đức Khôn ngoan trong đó, nên ý định của Thiên Chúa quyết tìm chốn cơ ngơi cho Đức Khôn ngoan ở trái đất. Và, để chữa cho khó khăn này là việc Nhập thể. Tính độc đáo nơi Tin Mừng thánh Gioan tuyệt nhiên không nằm ở nền thần học về LỜI nhưng là Kitô-luận về nhập thể: thánh Gioan không chế ra LỜI, nhưng thánh-nhân diễn tả cách độc đáo về LỜI đã mặc xác phàm.
“Đức Khôn ngoan không tìm ra nơi nào để cư ngụ; nhưng chỉ một chỗ dành cho Đức Khôn ngoan là thiên quốc. Sau đó, Đức Khôn ngoan ra ngoài ở với con cái loài người, nhưng vẫn không tìm ra được chỗ nào. Thành thử, Đức Khôn ngoan trở về lại nơi cũ, sống với thiên thần.” (1 Enoch 42: 1-2)
Đức Khôn ngoan từng đến với thế gian trước cả Đức Giêsu Kitô, nhưng không được đón nhận dù là Sự Sáng. Israel từ đó mới đưa Đức Khôn ngoan về lại Thiên đường, sống với thiên thần. Và lúc đó, một số người mới nhận Đức Khôn ngoan. Một số người Do thái lại cũng đón nhận LỜI. Người đó trước nhất là Abraham. Và những người như thế đã trở thành con Thiên Chúa, qua LỜI.
Ở đây, đã thấy rõ sự khởi đầu lời rao giảng đặc biệt nơi Đạo: thánh Gioan nói: chính Đức Khôn ngoan/LỜI đã trở về từ thiên quốc và nhập thể vào với Đức Giêsu và nhờ đó trở thành ánh sáng và là thày dạy tốt hơn về tuổi thơ ấu của Đấng nhập thể vào với con người…
Toàn bộ bài giảng giải ở lời tựa Tin Mừng thánh Gioan đã trở thành cây cầu bắc ngang nối liền khoảng cách giữa thời mà LỜI chưa hiện hữu và lúc LỜI nhập thể và từ đó cắt nghĩa được thời gian tạo động lực cho nhập thể.
Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ Môsê nhận được và Ngài không đổi dời sứ vụ ấy. Thế nên, chỉ cần giải thích Luật Torah cho tốt, và LỜI nhập thể là Thày dạy thích hợp nhất cho việc mặc xác phàm. Dạy bằng LỜI vẫn trong sáng, xác thực hơn văn viết (Derrida). Thiên Chúa đã thử bằng văn bản, nhưng sau đó Ngài gửi LỜI nhập vào xác thể của Đức Giêsu.
LỜI nhập xác phàm là Thày dạy tốt và nhà chú giải tốt nhất nên Ngài mới nhập thể.
Thế nên, sự khác biệt đích thực giữa người Do thái đi Đạo và ngoài Đạo không mang tính thần học. Khác biệt thực thụ giữa hai bên là sự kết hợp giữa thần-học và thần-thoại-học Do thái lúc trước, và Đức Giêsu thành Nadarét là người Do thái rất đặc biệt.
Tin Mừng thánh Gioan đoạn 18:
Tư tế Eliezer là con trai của Tư tế Yose người Galilê có nói: Chín trăm bảy mươi bốn thế hệ đã xảy đến trước khi thế gian được tạo dựng, Luật Torah cũng được viết ra và đặt dưới gót chân của Đấng Chúc Phúc và người con đã cùng với thiên thần hát mừng rằng:
“Ta ở bên Người như đứa trẻ được quý mến,
và ngày ngày ta là nguồn vui sướng của Người,
chơi giỡn trước mặt Người mọi thời.”
(Cách ngôn 8; 30)
Ở đoạn khác, tư tế lại cũng viết:
“Ta đã cưu mang hết những người này
Và ta đã cho chúng được sinh ra
và rồi các ngươi lại sẽ bảo:
Hãy mang Người trong bụng
như bà mụ đỡ mang đứa trẻ”
Bởi lẽ, các tư tế và trẻ thân yêu ấy được Cha mang Con của Thiên Chúa, tức Luật Torah ở trong bụng. Văn chương tư tế vào thời trước khi có Tin Mừng thánh Gioan, Người là LỜI. Là Con Chúa, rất rõ ràng.
———————
Mai Tá lược dịch
Nguồn: VRNs
0 nhận xét:
Đăng nhận xét