LTCGVN (02.11.2013)
Xin đừng quên tôi!
(Lễ các Đẳng
Linh Hồn)
“Xin đừng quên tôi!” là ý nghĩa
theo tiếng Anh của một loài hoa: Forget-me-not. Tiếng Việt gọi là Lưu Ly Thảo.
Hoa nhỏ và có màu tím buồn. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy trong
tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, nó vẫn mang những ý nghĩa khác. Với người Công
giáo, Lưu Ly Thảo cũng đang nhắc nhở về lời kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn
nơi luyện hình: “Xin đừng quên tôi!”.
Là những người thuộc Giáo hội Chiến
đấu, Giáo hội Lữ hành, chúng ta vừa mừng kính chư thánh thuộc Giáo hội Khải
hoàn, những người đã được hưởng Phúc Trường Sinh, chúng ta gọi họ là Thánh. Giáo
hội muốn chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị-thánh-tương-lai, đặc biệt
trong Tháng Cầu Hồn, vì chắc chắn họ sẽ được hưởng phúc trường sinh nay mai,
trong đó có những người thân thiết của chúng ta. Họ được vào Thiên đàng sớm hay
muộn là nhờ chúng ta, vì lúc này họ đành “bó tay”, chịu thúc thủ, không thể làm
gì được.
Thánh Gioan Tông đồ cho biết thị
kiến: “Tôi thấy những người chết, lớn
cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở
ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm,
chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại những người
chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và
mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. Tử thần và Âm phủ bị quăng vào
hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. Ai không có tên ghi trong Sổ trường
sinh thì bị quăng vào hồ lửa” (Kh 20:12-15). Các linh hồn nơi luyện hình đã
được cấp Visa-Sự-Sống, chỉ còn chờ ngày “bay” về Thiên Đàng thôi.
Khi cầu nguyện cho họ thì lại là
chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản
thân”. Tuy nhiên, dù các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các
ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được
“phân loại” là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước
Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).
Thiên Chúa yêu thương mọi người,
chỉ muốn mọi người được về sống chung với Ngài trên Thiên quốc, Ngài không phân
biệt ai và không muốn ai phải mất Ngài. Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi
đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc
Ben-gia-min. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước”
(Rm 11,1-2a).
Thánh Phaolô nói thêm: “Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã
quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng
ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được
ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì
khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12).
Vô tri bất mộ – không biết không
thích. Biết rồi thích. Thích rồi mến. Mến rồi yêu. Yêu rồi mê. Mê rồi say. Say rồi
bạo (bạo dạn), tức là can đảm. Thánh Phaolô đã theo “chuỗi hệ lụy” đó, thế nên
ngài phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không
muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn,
đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia
nhập đông đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ
núi Sion, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà
Gia-cóp. Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (Rm
11:25-27).
Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa
thương xót, thế nên Ngài mới kêu gọi chúng ta theo Ngài. Để làm gì? Để Ngài
trao ban hạnh phúc trường sinh. Ngài là Đấng trung tín tuyệt đối: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì
Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29). Thật là hạnh phúc cho những tội nhân
khốn kiếp như chúng ta.
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đặt
giả thuyết: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài
chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? (Tv 130:3). May mà đó chỉ là giả
thuyết, không là sự thật: “Nhưng Chúa vẫn
rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:4). Kiếp lữ hành
quá khổ, ai cũng muốn được giải thoát, nhưng chẳng tìm đâu ra ngoài Thiên Chúa:
“Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi,
cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng
đông” (Tv 130:5-6). Lính gác đêm hoặc ngày cũng đều mỏi mệt lắm, chỉ mong
hết giờ gác. Nhưng niềm khao khát Chúa còn hơn vậy. Thật tốt lành cho người nào
biết tìm kiếm Chúa như thế! Tìm được Ngài rồi thì hạnh phúc gấp bội, hoàn toàn
an tâm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng
thiếu thốn chi” (Tv 23:1).
Tìm kiếm Chúa làm gì? Có ai thấy
Chúa đâu mà tìm? Những người vô thần bảo “tôn giáo là thuốc phiện ra ngủ”, chính
Karl Marl còn quyết tâm triệt tiêu niềm tin tôn giáo kia mà? Không thấy Chúa
sao vẫn muốn triệt? Thiên Chúa là Sự Sống mà sao họ lại muốn giết chết sự sống?
Phải chăng tự mâu thuẫn? Gương Saolê nhãn tiền còn đó! Cũng tương tự, người ta
công khai nhận mình theo chủ nghĩa duy vật mà sao vẫn thắp nhang khấn vái người
quá cố? Phải chăng duy vật chỉ là “cái hộp” đựng “duy tâm” hoặc “duy linh” bên
trong? Lại tự mâu thuẫn!
Một hôm, tại hội đường
Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu nói: “Tôi là
bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh
tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
Thế nên, người Do-thái liền tranh
luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao
ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Nếu là chúng
ta lúc đó thì chắc chắn cũng thế thôi!
Nhưng Đức Giêsu nói “dài hơi” và đầy
tính quyết liệt: “Thật, tôi bảo thật các
ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống
nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho
người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật
là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại
trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa
Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.58 Đây là bánh
từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn
bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga
6:53-58). Tuy nhiên, đầu óc “bã đậu” của phàm nhân làm sao hiểu thấu!
Nghe nói vậy, không ai khác là
chính các môn đệ còn nói: “Lời này chướng
tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Kiểu như phàm nhân nói: “Giòi trong xương giòi ra”. Các đệ tử
ruột còn chưa nghe nổi thì ai nghe nổi? Chúa Giêsu biết các đệ tử xì xầm, nhưng
Ngài làm ngơ, nói với đầu gối còn hơn!
Các linh hồn nơi luyện hình cũng đã
từng ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa, rồi các ngài cũng sẽ được sống đời đời như
lời Chúa Giêsu đã hứa, dù lúc này còn phải chịu thanh luyện trong “lửa”. Mà
Chúa đã hứa thì chắc cú!
Thánh Faustina tâm sự: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ
chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức
mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất
hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu của Thánh Faustina lớn lao
quá!
Các linh hồn ngày đêm kêu than van
vỉ: “Xin
đừng quên tôi!”. Giáo hội Lữ hành hãy lắng nghe họ, xin cho họ hưởng
nhờ những “giọt nước mát lạnh”.
Thiên Chúa là tất cả. Ước gì mọi
người đều nói được như Thánh Thomas Aquino, Linh mục Dòng Đa-minh, Tiến sĩ Giáo
hội, tác giả bộ Tổng luận Thần học “kếch sù”, rằng: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó là phần thưởng cao quý
nhất và tuyệt vời nhất.
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót mà tha thứ hình phạt cho các linh hồn, cho
họ được sớm mãn hạn tù tội, xin cho các linh hồn về hưởng phúc trường sinh bên
Ngài muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng
con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
0 nhận xét:
Đăng nhận xét