Chương IV
Phaolô và cảm nghiệm về Chúa sống lại
GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG ĐAMÁT
Tóm lược
Thánh Phaolô từng trải nghiệm về một đổi đời khi gặp gỡ Chúa-Phục-Sinh trên đường Đamát. Gặp gỡ này, đánh động ông suốt một đời, cả về sau. Gặp Chúa rồi, thánh-nhân lại nhận ra rằng: đằng sau nỗi chết, vẫn còn đó sự sống. Như ta biết và cũng từng mơ chuyện này cho riêng mình. Mơ, là mơ điều gì đó xảy đến tiếp theo sau, có cuộc sống siêu phàm như của Đấng rất thánh. Mơ, là mơ về một thăng hoa phấn kích rất khác biệt ở cuộc sống và ở cả nỗi chết. Và, giữ lại nơi con người những giá trị ở cả hai cảm nghiệm sống động và chết chóc nữa. Khi ra đi để đến với mọi người trong cuộc sống, thánh-nhân đã gặp Chúa và mọi người đang lùi dần vào cõi chết của chính họ. Ra đi gặp gỡ, để có được sự sống có nâng nhấc, rất trỗi dậy.
Thánh Phaolô gọi đó là sự sống phục sinh. Điều này có nghĩa, là: cách sống cũng hiện tại, chứ không phải chờ đến mãi về sau. Thánh-nhân lại cũng nhận ra rằng: lối sống nhị-nguyên ta hằng suy-tưởng, không chỉ có mỗi nhị-nguyên sống/chết mà thôi, nhưng còn có cả nhị-nguyên tốt/xấu, thấp/cao, Do thái/dân ngoại, bây giờ/mai sau, ở đây/nơi đó, chủ/tớ cùng nhiều nhị-nguyên khác vẫn vẫn thăng-hoa nâng nhấc, vào mọi lúc. Chính vì thế, ta khởi đầu cuộc sống siêu-phàm ngay lúc này. Và như thế, là: Đức Giêsu đã mặc khải sự việc ra như thế với chính thánh-nhân, và đã ban tặng cho ông niềm xác-tín để ông thấy được rằng: qua Đức Giêsu, nhị-nguyên sống/chết có khả năng thi-thố với mỗi người và hết mọi người. Trên nguyên tắc, nhị-nguyên nâng nhấc/trỗi dậy ấy cũng đã ban cho mọi người. Đó, là tự do cởi mở vẫn rất thực. Một sự thực, như Phục sinh/trỗi dậy đang khởi phát nơi ta. Và, mỗi khi ta có cảm nghiệm về những chuyện như thế, cảm nghiệm ấy lại sẽ ngang qua ta mà đến với mỗi người, để hết mọi người được tự do thật sự. Và, sứ mạng mà thánh Phaolô kiến tạo cho cộng đoàn của thánh-nhân để họ sống như thế. Và thánh nhân, cùng với bạn đạo ở các cộng đoàn thân quen đã học được cách sống một cuộc sống có nâng nhấc/phục sinh –vượt mọi rào cản dù đầy huý kỵ/sợ sệt- để sự sống của chính mình mang ý nghĩa rất thiết thực.
TƯỜNG TRÌNH TRÊN GIẤY BÚT
Vừa qua, chúng ta đã khởi sự tư-duy về hiện tượng xảy đến sau diễn biến đổi đời nơi thánh Phaolô, thì nay là dịp thuận để ta tập trung suy tư về thánh-nhân, cho kỹ hơn. Trước hết, tưởng cũng nên đề cập đến các sự kiện trọng đại từng xảy ra trong đời thánh Phaolô. Đôi lúc, nhiều người giống như tôi, vẫn đắn đo/do dự khi sử dụng cụm từ “sự kiện” để diễn tả cuộc đổi đời nơi thánh-nhân. Bởi, kinh nghiệm ấy có thể xảy đến với bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào đều có thể đuợc. Và xảy đến, là đến với bản thân mình trong quãng dài cuộc đời như từng xảy đến với thánh Phaolô trên đường Đamát khiến ông đã có một đổi đời, rất hiện sinh.
Đề cập vấn đề này, có một số yếu tố bất chợt nảy sinh khiến ta phải tra cứu cho kỹ lưỡng. Chẳng hạn như sách Công Vụ, ta thấy tác giả đề cập đến “chuyển biến” này, những ba lần. Ở đoạn 9, 22 và 26 trong đó có cả một trình thuật rất tuần tự, khúc chiết chỉ nói về sự việc ta truy tìm. Nhưng ở đây, thiết tưởng ta cũng nên tự chế để tập trung vào những điều khả dĩ giúp ta về với nguồn văn nào khác có thể gặp. Và, như dự đoán, có thể thánh Luca cũng đã “miêu-dạng-hoá” truyện kể để thánh-sử có thể diễn tả theo lối hành văn rất thi tứ vẫn thường thấy nơi thánh sử. Xem như thế, đó không phải là Phaolô thuần khiết mà các đấng bậc trong Hội thánh đã gặp ở các chương/đoạn trong Công Vụ như quà tặng hồng ân cho-không/biếu-không để rồi nhanh chóng kết luận là: thánh Phaolô từng bách hại cộng đoàn tin hữu Đạo Chúa ở Giuđêa. Và từ đó, có lập trường cứng ngắc hoặc quan điểm không xác đáng cho lắm nhằm hỗ-trợ luận-cứ lại vẫn bảo: thánh Phaolô có phép của Thượng Tế Giêrusalem được đặc ân đi Đamát săn bắt, gom lại và cầm giữ nhiều tín hữu dân con Đạo Chúa ở đất miền Đamát, xứ Syria. Bản thân, tôi hơi ngờ ngợ tính xác thực của sự việc xảy đến không như chi tiết lịch sử đã diễn bày.
Có một chuyện cần minh định ngay ở đây, là: Thuợng Tế nói ở trên không có thẩm quyền gì ở ngoại vi xứ miền Giuđêa hết. Sự việc càng được xác chứng thực hơn, do bởi lời lẽ của thánh-nhân từng cho thấy rằng ông chẳng khi nào bị tai tiếng chính mình là tay tội-đồ chuyên bắt bớ giam cầm bất cứ một ai thuộc cộng đoàn tín hữu ở Giuđêa, hết. Ngôn ngữ, thánh Phaolô sử dụng là để nói rằng mình cũng là “kẻ bách hại” tựa hồ như lời của các tín hữu từng ăn-năn sám hối nay công nhận lỗi tội “bách hại” chính mình và tự đặt mình ngang hàng với kẻ chuyên bắt bớ/giam cầm con dân của Chúa. Ngôn ngữ khi xưa thánh-nhân sử dụng, cũng tựa hồ lời lẽ ta vẫn có mỗi khi quyết tâm cải hối quyết liệt là thế. Quả thật, đôi khi ta cũng liến thoắng cho rằng: kinh nghiệm mà thánh Phaolô từng trải, vẫn xảy đến với nhiều người/nhiều vị trên lộ-trình Đamát đi bất cứ đâu. Nhưng, ở đây nữa, việc chỉ đích danh chốn miền như thế mà không dựa vào tài liệu đích đáng nào cả, thật ra cũng không phải. Bất cứ một ai từng có cảm nghiệm đều tưởng tượng sự kiện xảy đến với thánh Phaolô khi thánh-nhân hướng về Đamát vào lúc đó khiến ông được Chúa gặp gỡ đánh cho ngã ngựa.
Đọc kỹ văn bản Kinh thánh ta tuyệt nhiên không thấy chỗ nào trong Sách Công vụ hoặc trong các thư do thánh Phaolô ghi, cho thấy ông có mặt ở nơi đó, vào lúc ấy. Và cũng chẳng ai gặp thấy chương/đoạn nào lại cứ kể về chuyện thánh Phaolô lên đường đi Đamát bằng ngựa, mà trên thực tế, thì: một người như thánh Phaolô, chẳng khi nào lại có đủ khả năng lữ-hành rong ruổi đó đây trên lưng ngựa, hết. Ngựa ở đây, là ảnh hình được nghệ nhân thời sau này nghĩ ra để làm cho người chiêm ngưỡng tranh và ảnh, cảm thấy vui khi trầm tư ngưỡng mộ. Điều thú vị hơn, là: nếu ta quan sát kỹ thực chất của sự việc có ghi trong văn bản kể trên, đều không thấy nói đến nội dung thị kiến có xuất-hiện cách náo đó, trên tranh vẽ. Điều đó, chứng tỏ tranh ảnh nghệ thuật chỉ diễn tả tâm tư người họa sĩ khi họ thực hiện bản vẽ, chứ không hề nắm vững lịch sử xảy ra từ các thế kỷ trước.
Đoạn 9 sách Công Vụ, thánh Luca viết truyện kể theo văn phong/thể loại rất độc đáo. riêng tây của thánh Phaolô theo phong cách truyện “dã sử” về thánh-nhân, thôi. Đoạn 22, tác giả lại để cho thánh Phaolô đến và nói về chuyện này ngay tại đền thờ. Đoạn 26, thánh Luca cũng đã để cho thánh Phaolô nói cho Agrippa và Bernicê biết về các vấn đề như thế. Xem như thế, thì tất cả những gì nói ở Sách Công vụ đều là vai-trò mang tính chất rất kịch thấy ở truyện kể mà thánh Luca thường trích dẫn, rất nhiều lần về sau.
Công Vụ đoạn 9, tạo cho trình-thuật thánh Luca tính chất cũng riêng tây về sự việc Chúa-Phục-Sinh can thiệp vào nội tâm bên trong thánh Phaolô. Đoạn 22, lại đã tạo cho trình-thuật kể về thánh Phaolô bằng lời lẽ qua đó thánh-nhân tự bào chữa cho chính mình ngay tại hiện trường Antônia, tức pháo-đài làm nền cho vụ/việc nọi hầu nói lên một minh định bảo rằng: thánh Phaolô thực sự đã trung thành với thánh-ý Chúa của người Do thái và thánh-nhân bằng lòng cho người ngoại giáo được gia nhập vào với ơn cứu độ, và như thế không làm đứt-đoạn Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài.
Thánh Luca cũng để cho nhân vật Phaolô trong trình thuật của mình được nói lên một điều là: mọi người đều thấy được ánh sáng chói chang/đặc biệt như ông đã từng thấy, dù chỉ nghe được tiếng nói vào hôm ấy, thôi. Và, sau khi đã tự bảo vệ cho mình như thế, thánh Phaolô lại đã “nhập thần” đón nhận ơn gọi ngôn sứ phục vụ người Do thái, chứ không chỉ mỗi ơn gọi rất riêng tây của dân Do thái, thôi. Công Vụ đoạn 26, cũng cho thấy thánh Luca giới thiệu nhân vật Phaolô biện hộ chính mình trước Agrippa và Festus, rồi tuyên bố mình là tay Biệt Phái luôn tin tưởng rằng người Do thái hiểu rõ sự Sống lại một cách cũng rành rẽ, đâu kém ai. Một lần nữa, điều kỳ lạ chính-yếu nơi Đức Kitô là Ngài vẫn tiếp tục tuyển chọn Israel làm dân riêng của Ngài, mà thôi.
Ở đây, quả là tôi cũng lệ thuộc khá nhiều vào chương 1 của thư Galát và đôi lúc cũng dựa trên thư Corinthô là thư có những chỗ ghi chú lời tuyên bố rất riêng tây của thánh Phaolô về sự việc này. Luận-cứ chính ở đây lại muốn nói, rằng: thánh Phaolô từng gặp gỡ Đức Kitô ngang qua thị kiến sống động. Và Đức Giêsu, Ngài vẫn sống sót. Chứ, Ngài đâu đã chết và cái chết trên thập giá đâu đã kết thúc đời Ngài bằng một sự kiện tương tự thế. Và, Ngài cũng được chôn cất cẩn thận rồi đã ra đi biền biệt về chốn miền khó biết bằng đầu óc tưởng tượnc của con người. Thật sự thì Chúa đang sống rất sinh động –điều này có nghĩa là: Ngài đã “trỗi dậy.” Hoặc, nói theo ngôn ngữ của Đạo Chúa thời đó, thì rõ ràng Đức Giêsu Kitô đã Phục Sinh. Nói thế có nghĩa: với thánh Phaolô là người Do thái, thì việc Chúa sống lại đã bắt đầu, rất thường tình. Chính sự kiện này cũng đã thay đổi toàn bộ thế giới.
“Thật thế, thưa anh em, tôi xin nói để anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải. Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.
Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã kêu gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.” (Gal 1: 11-19)
Trước đây, thánh Phaolô có nghe nói về Đức Giêsu. Có lẽ thánh-nhân cũng không nghe nhiều về Ngài. Thánh-nhân chưa từng gặp Chúa lần nào, lại chưa bao giờ thấy Ngài bằng mắt thịt phàm trầnb, cũng chẳng ở loanh quanh đâu đó vào lúc Chúa hoạt động hoặc ông có mặt ở đó hay không, vào những nơi Chúa đặt chân đến giảng rao. Tôi thiển nghĩ, thánh Phaolô từng nghe nhiều về Chúa, nhất thứ là khi Ngài nói về Nước Trời gần kề; và khi đó, hầu hết những người theo chân Chúa đều nghĩ rằng: việc sống lại cùng trỗi dậy đã khởi sự với Chúa-Phục-Sinh. Đáng lý ra, thánh Phaolô cũng nói: “Điều này rõ thật phi lý!” Tức, ta hãy để chuyện ấy qua một bên, cũng chẳng cần suy nghĩ về việc ấy, mà làm gì, lúc này. Theo tôi thì, chính ở giai đoạn này, nhiều người lại cứ nghĩ: thánh Phaolô vẫn là như thế. Nói khác đi, thì sự việc dù có xảy đến trên đường Đamát hoặc nơi nào khác, thánh-nhân vẫn cứ nghe nói có vị nào đó đang làm chuyện lạ kỳ như chấp nhận để cho người ngoại giáo gia nhập cộng đoàn Do thái vì chuyện lạ về Chúa-Sống-lại, ra như thế. Và ông tìm cách không để đấng bậc trưởng thượng ngăn chặn sự việc ấy, ngay tức thì dù phải dùng đến bạo lực, cũng vẫn làm.
Giờ đây, cũng nên xem xét sự thể xảy đến với thánh Phaolô trên đường đi Đamát và coi xem hậu quả của việc ấy thế nào, về sau. Có điều ai cũng hiểu, là: chuyện gì đó đang thực sự xảy đến với thánh Phaolô.
LẬP TRƯỜNG CỦA THÁNH PHAOLÔ
Những gì xảy đến với thánh Phaolô lâu nay vẫn được mọi người coi đó là mặc khải. Là, hồi hướng trở lại, hoặc ơn gọi, hay sứ vụ. Nhưng, nói thế có ý gì? Nay thì, các cụm từ như thế vẫn đan kết nhau khá chặt, khiến ta có thể dùng cụm từ nào bao hàm cùng một ý nghĩa với sự kiện “hiện ra” nếu chúng mang trọn kinh nghiệm ý nghĩa đánh động mọi người. Thông thường thì, cụm từ “hiện ra” được cộng thêm chất liệu mang tính chủ quan của người dính dự vào đó. “Mặc khải”, là ngôn từ được thánh Phaolô thường hay sử dụng để diễn tả những gì đã xảy đến.
Bên tiếng Hy Lạp, “mặc khải” là cụm từ xuất từ chữ “apocalypsis” có nghĩa: “cánh chung” hay “khải huyền”, để chỉ về thị kiến nói đến những gì xảy ra, vào lúc cuối. Cụm từ “mặc khải” đây là có từ tiểu phẩm bằng tiếng Hy Lạp trong đó thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã mặc khải một cách huyền nhiệm về Con của Ngài, cho tôi”. Đây là tuyên ngôn đặc biệt. Tuyên ngôn này, không có nghĩa: thánh-nhân đã “thấy” được việc gì đó bằng mắt thịt phàm trần ở đâu đó. Nhưng ông “thấy” được chuyện đó, xảy đến bên trong ông. Đó là sự thể sâu sắc. Và sự thể này, dẫn về những điều mà một số người gọi bằng cụm từ văn hoa như “hồi hướng trở lại”. Nhưng, chuyện này lại không có nghĩa bảo rằng người nào đó từ phía Do-thái-giáo đã hồi hướng trở về với Đạo Chúa. Đó, cũng không phải là cuộc “trở lại” từ đạo này sang đạo khác, mà đích thực là “Hồi hướng trở lại” nếu ta buộc phải dùng từ ngữ này theo quan niệm thế nào đó có tự bên trong Israel bằng lập trường khác cũng từ bên trong Israel, mà ra.
Thánh Phaolô từng ở vị thế đó cho đến giây phút ông thở hơi cuối cùng; hoặc, cho đến khi ông trỗi dậy theo cung cách rất Phục sinh, để thành người Do thái đích thực, rất hoàn toàn. Thành thử, nói cho cùng thì: “Hồi hướng trở lại” cũng mang ý nghĩa khá lờ mờ, tối um. Bản thân tôi, chẳng khi nào lại muốn sử dụng cụm từ này một cách tùy tiện hết. Và, điều đó còn dẫn chứng từ “ơn gọi”, hoặc lời kêu mời trực tiếp từ Thiên Chúa, để rồi ta sẽ làm được những việc gồm tóm kết quả của một kinh nghiệm về mặc khải, cũng rất mực.
Thánh Phaolô cũng không được nhóm hội/cộng đoàn nào mời gọi “hồi hướng trở lại” hết. Thánh nhân cũng chẳng được cộng đoàn nào ở Antiôkia gia dĩ muốn mời chào. Thánh-nhân lại không được các vị có thẩm quyền từ các giáo hội cho phép làm như thế. Đôi khi thánh-nhân cũng bị cộng đoàn giáo hội ở nhiều nơi xem xét theop dõi nữa. Thành thử, ta có dùng cụm từ “sự kiện” này cũng chẳng sao. Nhưng ơn gọi và sáng kiến này, là lời mời trực tiếptừ Thiên Chúa, Đấng đã nâng nhấc Đức Giêsu để Ngài trỗi dậy từ cõi chết –và chính Thiên Chúa của mọi sự kiện phục-sinh rất thường tình cũng đã làm thế với Đức Giêsu- và nhờ cụm từ mang ý nghĩa rõ như thế, thánh Phaolô đã hiểu rõ sứ mạng của ông, suốt đời, khiến ông phải làm việc gì đó như kết quả kiến tạo ở bên trong lại đã xuất phát từ cảm nghiệm lớn kia.
Để diễn tả kinh nghiệm mà thánh-nhân từng trải, đôi lúc ta cũng đọc ở đâu đó đại ý có nói: thánh-nhân bị đánh gục đến độ ông trở nên mù loà. Sách Công Vụ quả cũng nói những câu đại loại mang ý nghĩa như thế. Không chỉ mỗi thế mà thôi, một số vị còn đi xa hơn nữa, vẫn cho rằng: thánh-nhân còn bị điếc đặc nữa là đằng khác. Trong khi đó, thánh-nhân lại nói khác. Ở thư thứ nhất Corinthô đoạn 9 câu 1, thánh nhân ghi:“Tôi đã chẳng thấy Đức Giêsu, là Chúa chúng ta sao?” Thật ra, mắt thánh nhân không bị mù/loà hay khiếm thị gì hết, nhưng trái lại, ông vẫn “thấy” Chúa. Cũng trong thư Côrinthô nói trên, thánh-nhân lại nói: “Người đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào trẻ sinh non.” (1Cr 15: 8). Mù loà và “sinh non” ở đây, có thể và không thể xảy đến ngay lúc đó được hết. Nhưng, ở đây đúng là thị kiến. Có lẽ không phải thị kiến theo kiểu mắt thịt phàm trần vẫn nhìn thấy; nhưng đích thực là thị kiến theo nghĩa chữ, rất rõ. Chính thánh Phaolô có nói ở một đoạn khác, rằng: “Có được đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là được nghe công bố lời của Đức Ki-tô.”(Rm 10: 17). Bằng vào những lời như thế, tôi đoan chắc một điều, là: thánh Phaolô cũng đã qui chiếu những điều mà Đức Kitô mặc-khải cho ông, như đã trích dẫn ở sách Công Vụ.
Nếu thế thì, thánh Phaolô thực sự đã “thấy” và đã “nghe” ai đó nói với ông. “Ai Đó” ở đây đã mặc khải chính Mình Ngài cho thánh-nhân để ông nhận thức cho rõ. “Ai Đó” đây, chính là Đức Kitô-sống-lại. Và thánh Phaolô, bằng vào lý lịch cùng quá khứ của người Do thái từng thông hiểu thần học và sự Sống-Lại theo đúng cách, vẫn thấy thoáng hiện trước mắt ông những điều đã được mặc khải như thế. Thánh Phaolô nhìn vào sự kiện “sống lại/trỗi dậy” rất thường tình ở Đức Giêsu và khi ấy thánh-nhân đã kêu lên: “Chà! Rõ ràng là thế này đây!” Và, đó là thời khắc đặc biệt gặp thấy trong toàn bộ cuộc đời của thánh-nhân.
Có thể nói, thánh Phaolô không mấy thích thú với cái nhìn bằng mắt thịt phàm trần về Đức Chúa-Sống-Lại, hoặc cứ tìm xem nơi xác thể của Chúa-Sống-lại xem sự thể xảy ra như thế nào. Thánh-nhân không thể quan tâm ít đi –để rồi sau đó sẽ lại chẳng biết gì hơn thêm. Khi có người ở Côrinthô hỏi thánh-nhân là: ông có “thấy” thân xác sống lại nó giống thứ gì không? thì ông đáp: “Kìa! Tôi đâu rõ về chuyện đó!” Thánh-nhân có lần cũng nói: “Bạn biết đấy! Khi bạn gieo hạt giống vào lòng đất, nó sẽ trỗi dậy rồi nở rộ thành vụ mùa rất đạt. Cũng thế, những gì tôi biết được, là thế này: khi ta đi vào lòng đất rồi chết đi, như thế là ta cũng trỗi dậy để thành một thứ gì đó khác hẳn. Thứ gì đó, tôi thật không rõ. Đừng hỏi tôi những điều như thế. Đó không là điều khiến ta cần để ý lắm đâu…”
Có gọi đó là “Phục sinh” hay không, thánh Phaolô không xác định ý nghĩa của sự việc ấy như một “phục hồi sinh lực” của xác thể phàm trần –như trọn vẹn một tổng hợp bao gồm nhiều hơn thế. Và, nó hoàn toàn khác trước rất nhiều. Thế nên, việc đối đầu/chạm mặt với Đức Chúa-Sống-Lại quả là đã đem đến cho thánh-nhân một nhận thức rất rõ và một sứ điệp rất hiện thực. Và, ông “thấy” được điều đó cũng như đã từng “nghe” chuyện đó rất thâm sâu. Ông định ra quan điểm lập trường rất riêng tư về sự việc phục-sinh/trỗi dậy là thế đấy.
Quả thật thánh-nhân không “thấy” hình hài/xác thể rất xác phàm của Đức Chúa-Sống-Lại. Ông không thể diễn tả bề mặt thể chất rất bên ngoài, nếu như việc đó không có thật. Ông cảm nghiệm được về một hiện diện mà ông chưa từng biết. Theo cách nào đó, ông biết rất rõ đó chính là Đức Chúa, rất Giêsu.
Ở đây nữa, ta nên nhớ: thánh Phaolô chưa từng giáp mặt gặp Đức Giêsu một lần nào và ông cũng chẳng hình tượng được Ngài trông giống ai.
Đây là sự thể về kinh nghiệm quý báu, rất khó đoán. Duy, có điều chắc chắn, là: ông “biết” được rằng Đức Kitô –Đấng đã chết đi, rồi bị treo trên thập giá cho đến chết- Ngài vẫn sống sót. Và, Ngài đang có ở đó với ông. Ta gọi đó là “Phục sinh/trỗi dậy”, nhưng thánh Phaolô không định nghĩa sự việc như cuộc “phục hồi sinh lực” rất thể xác, phàm trần. Đó là tổng thể dồi dào ý nhị hơn thế nhiều. Bằng vào giáp mặt Đức Kitô sinh động, việc ấy đem đến cho ông một sứ điệp. Và, sứ điệp ông đây, là những gì ông được “nghe” và được biết, rất sâu sắc. Và, ông có được quan điểm/lập trường về sự việc này, thật vững chắc.
Mai Tá lược dịch
Nguồn: VRNs
0 nhận xét:
Đăng nhận xét