Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Giáo Huấn Công Giáo về Tính Dục (hết)


Vatican II

Công Đồng Vatican II bàn đến hôn nhân và gia đình trong Hiến Chế Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes), các đoạn 46-52. Có nhiều ý kiến dị biệt nơi các Nghị Phụ liên quan đến các dự thảo trước đây của văn kiện này. Có nhóm muốn văn kiện theo sát các công thức của Bộ Giáo Luật và các văn kiện giáo hoàng về các vấn đề chủ chốt như các mục đích của hôn nhân. Có nhóm lại muốn vượt ra ngoài các công thức ấy một cách rõ rệt. Lại có nhóm muốn mở cuộc thảo luận về vấn đề ngừa thai nhân tạo. Đức GH Gioan XXIII lập ra một ủy ban để nghiên cứu vấn đề ngừa thai. Đức GH Phaolô VI chỉ thị cho Công Đồng không được nói gì về vấn đề này. Chính ngài sẽ tuyên bố về nó sau khi nghiên cứu phúc trình của ủy ban.

Phần nói về hôn nhân trong Gaudium et Spes chứa đựng khá nhiều tuyên bố trước đó của các vị giáo hoàng, nhưng Công Đồng cũng đã đưa ra các nhấn mạnh riêng của mình về vấn đề này. Chủ yếu trong cuộc thảo luận về hôn nhân và gia đình là điều gọi là “tình yêu kết hôn” hay “tình yêu phu phụ”. Được coi như vấn đề thuộc ý chí con người, tình yêu này có nghĩa hơn thèm muốn thể lý, dù bao gồm biểu thức thể lý. Nó khác biệt với mọi hình thức khác của tình bạn ở điểm nó được biểu lộ và được hoàn hảo bằng hành vi thể lý của vợ chồng, một hành vi vừa biểu tượng vừa phát huy việc vợ chồng hiến thân cho nhau (28). Tình yêu phu phụ này phát sinh từ nguồn suối tình yêu Thiên Chúa, và được cấu trúc theo mẫu tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo Hội. Tình yêu phu phụ này được sáp nhập vào tình yêu Thiên Chúa và dẫn đưa vợ chồng tới Thiên Chúa. Tình yêu này dẫn tới việc giúp đỡ và phục vụ lẫn nhau.

“Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ 'không còn là hai, nhưng là một xương thịt' (Mt 19,6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly” (29).

Công Đồng rõ ràng nói tới xu thế của hôn nhân hướng về con cái: “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân” (30). Rõ ràng các Nghị Phụ không lý luận dựa vào căn bản sinh học hẹp hòi. Vì bản chất của hôn nhân và của tình yêu vợ chồng phải được qui hướng về việc sinh sản. 

Dù không tuyên bố liệu có được phép ngừa thai nhân tạo hay không, nhưng Hiến Chế có thảo luận vấn đề này. Theo Hiến Chế, cha mẹ phải sinh sản con cái một cách có trách nhiệm, lưu tâm tới chính phúc lợi của mình và phúc lợi của con cái. Họ phải xem xét hoàn cảnh vật chất và tâm linh của thời đại, quyền lợi của gia đình, của xã hội trần thế và của Giáo Hội. Trong một số tình huống, còn có sự đối nghịch giữa các yếu tố khác nhau. Có thể có những lý do nghiêm chỉnh khiến người ta phải hạn chế số con cái. Đồng thời, việc hạn chế tính dục có thể tạo ra nhiều vấn đề. Thí dụ, nó có thể khiến cho việc duy trì lòng chung thủy trong tình yêu và sự thân mật vợ chồng trở thành khó khăn. Việc phán đoán nên có con hay không là việc của cha mẹ, nhưng họ không nên quyết định một cách võ đoán. Bổn phận luân lý không chỉ bao gồm động cơ mà thôi, mà còn đòi phải tuân giữ các tiêu chuẩn khách quan nữa. Trong phạm vi tác phong tính dục, các tiêu chuẩn này là các tiêu chuẩn biết “dựa vào bản chất con người nhân bản và các hành vi của họ, để duy trì trọn vẹn ý hướng tự hiến cho nhau và sinh sản con cái trong ngữ cảnh một tình yêu chân chính” (31). Cha mẹ có bổn phận phải khước từ phá thai. Họ phải có một lương tâm hiểu biết, một lương tâm phù hợp với thiên luật và vâng phục giáo huấn của Giáo Hội là người giải thích thiên luật ấy. 

Khi nói đến hôn nhân và gia đình, điểm gây tranh cãi nhiều nhất trong bản văn của Gaudium et Spes có lẽ là điểm không được nó nói đề cập đến. Việc bỏ sót này từng được ít nhất một quan điểm tại Công Đồng coi là chiến thắng. Đó chính là việc văn kiện bỏ không nói đến thuật ngữ mục đích đệ nhất và đệ nhị đẳng của hôn nhân, cũng như không giải thích chi về việc sự giúp đỡ lẫn nhau của vợ chồng phải tùy thuộc việc sinh sản và giáo dục con cái.

Văn kiện của Công Đồng cũng để trống không giải quyết một số vấn đề về hôn nhân và gia đình. Trong số đó, vấn đề ngừa thai nhân tạo đã cố tình được để đó, không giải quyết. Vấn đề khác được để đó có liên quan đến việc liệu có mối tương quan nội tại nào giữa các mục đích kết hợp và sinh sản của hôn nhân hay không. Nếu không có mối tương quan nội tại nào như thế, thì, như ta đã thấy, người ta được phép bước vào loại hôn nhân cố tình không qui hướng về sinh sản.

Ủy Ban Giáo Hoàng năm 1966

Tháng 6 năm 1966, ủy ban giáo hoàng về kiểm soát sinh đẻ phúc trình lên Đức Phaolô VI. Từ đó, bốn tài liệu đã được đưa ra ánh sáng. Một tài liệu có tựa đề là “Phúc Trình Thần Học Của Ủy Ban Giáo Hoàng Về Kiểm Soát Sinh Đẻ”. Phúc trình thường được biết dưới danh xưng “Phúc Trình Đa Số” này được 19 thần học gia và một số chuyên viên khác của ủy ban ký tên. Nó đại biểu cho quan điểm của phe đại đa số trong ủy ban. Tài liệu thứ hai, “Các Phương Thức Mục Vụ”, phù hợp với phúc trình đa số. Cả hai tài liệu này cổ súy sự thay đổi trong giáo huấn của Giáo Hội nhằm cho phép ngừa thai nhân tạo trong một số trường hợp. Tài liệu thứ ba, được gọi là “phúc trình thiểu số”, chỉ được 4 thần học gia của ủy ban ký tên. Các vị này không nhất trí với phúc trình đa số và nêu ý kiến không nên thay đổi giáo huấn của Giáo Hội. Tài liệu thứ tư là tài liệu làm việc của một số thần học gia cổ súy sự thay đổi trong giáo huấn của Giáo Hội. Nó nhằm bênh vực chủ trương của các vị này chống lại các luận điểm của tài liệu thứ ba (32). 

Có thể tóm lược quan điểm của phúc trình đa số trong sáu điểm sau đây. Thứ nhất, dù cho phép ngừa thai nhân tạo trong một số trường hợp, tài liệu này vẫn nhấn mạnh rằng tính dục và hôn nhân được qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái. Không được tách biệt việc kết hợp vợ chồng ra khỏi mục đích sinh sản con cái của hôn nhân. Tình yêu vợ chồng và khả thể sinh sản không chống đối nhau mà là bổ túc cho nhau. Cộng đồng sự sống giữa vợ chồng cung cấp cái khung thích đáng cho việc sinh sản và giáo dục con cái. 

Thứ hai, phúc trình đa số tiếp cận vấn đề từ cái nhìn vào toàn diện tính của hôn nhân. Nó muốn có hướng luân lý cho mình không phải từ việc xem xét hành vi hay quan năng tính dục mà thôi, mà là sét xem điều gì tốt cho hôn nhân hiểu như một toàn bộ. Việc này cho phép phúc trình đa số thừa nhận ngừa thai nhân tạo trong một số trường hợp trong khi vẫn nhấn mạnh tới xu hướng sinh sản của mọi hành vi tính dục. Nói cách khác, phúc trình đa số không rơi vào cái bẫy tách biệt hai mục đích độc lập của hôn nhân để rồi biện minh cho ngừa thai nhân tạo như là việc theo đuổi mục đích này trong khi loại bỏ mục đích kia. Phúc trình nhấn mạnh rằng nếu được phép sử dụng, ngừa thai nhân tạo phải tôn trọng cùng đích sinh sản của hôn nhân. Làm sao tôn trọng được? Việc kết hợp vợ chồng, sự giúp đỡ nhau của họ, tình yêu và cuộc sống chung, tất cả đều có xu hướng sinh sản cả. Nghĩa là: họ hiện hữu không phải chỉ vì mình mà còn vì con cái. Cho nên, nếu việc ngừa thai nhân tạo trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó có thể giúp cho sự kết hợp vợ chồng, thì nó đã gián tiếp phục vụ mục đích sinh sản của hôn nhân. Hơn nữa, nếu ngừa thai nhân tạo giúp cha mẹ săn sóc tốt hơn những đứa con hiện có, thì nó cũng đã phục vụ mục đích sinh sản rồi vậy.

Thứ ba, phúc trình đa số quả có tính duy hoàn cảnh trong lối tiếp cận của nó. Nó không coi ngừa thai nhân tạo là điều xấu luân lý từ trong nội tại, tuy có nhắc đến sự xấu thể lý nơi ngừa thai nhân tạo. Để quyết đoán điều gì tốt về luân lý trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó, người ta phải xét tới các giá trị khác nhau có liên hệ và cố gắng hoà hợp các giá trị này bao nhiêu có thể. Phúc trình đa số ủng hộ cách tiếp cận duy hoàn cảnh này trong trường hợp ngừa thai nhân tạo, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa: nó cũng muốn áp dụng cách tiếp cận này vào mọi lãnh vực khác của đạo đức học. Việc nó thẳng thừng và phổ quát bác bỏ phá thai cho thấy phúc trình không thừa nhận cách tiếp cận duy hoàn cảnh như thế.

Thứ tư, các tác giả của phúc trình đa số tin rằng họ vẫn trung thành với truyền thống. Họ cho rằng các giá trị mà Giáo Hội trong quá khứ bênh vực qua việc phổ quát loại bỏ ngừa thai nhân tạo nay có thể được bảo vệ tốt hơn nếu cho phép nó trong một số trường hợp. Xem ra, phúc trình muốn phân biệt hai bình diện của qui luật luân lý. Một bình diện là các giá trị căn bản được coi là tồn tại mọi thời. Liên quan tới ngừa thai, một trong các giá trị ấy chính là xu hướng sinh sản của hôn nhân. Bình diện khác là các qui luật chuyên biệt qua đó các giá trị kia được áp dụng vào các thời điểm và hoàn cảnh đặc thù. Khi hoàn cảnh và tín liệu thay đổi, thì giáo huấn của Giáo Hội trên bình diện này cũng có thể thay đổi. 

Thứ năm, phúc trình đa số lên án bất cứ não trạng ngừa thai nào. Nó tuyên bố rằng các cặp vợ chồng phải luôn sẵn sàng gầy dựng một gia đình với quyết tâm hoàn toàn chấp nhận các trách nhiệm nhân bản và Kitô Giáo có liên hệ. Hôn nhân hiểu như một toàn bộ luôn luôn phải có tính sinh sản.

Thứ sáu, phúc trình đa số nhấn mạnh đến giáo dục. Nó cầu mong vợ chồng nào cũng có khả năng tự quyết định xem điều gì tốt nhất cho hoàn cảnh đặc thù của họ. Để làm được điều đó một cách thích đáng, họ cần một hiểu biết và một lượng giá sâu sắc về các giá trị có liên hệ. Điều hết sức nguy hiểm là thay vì sống theo các giá trị của Tin Mừng, họ lại sống theo ý kiến và áp lực của quần chúng.

Phúc trình thiểu số bác bỏ một số chủ trương trong phúc trình đa số. Tuy nhiên, điều rõ ràng là: đối với 4 tác giả của phúc trình thiểu số, truyền thống và thẩm quyền là điều chủ yếu. Họ chủ trương rằng không thể giải quyết vấn đề ngừa thai nhân tạo bằng lý lẽ mà thôi. Xem ra họ muốn tin rằng lý lẽ do cả hai bên đưa ra đều không giải quyết được vấn đề. Như thế, phải giải quyết nó bằng truyền thống và thẩm quyền. Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo vốn bác bỏ mỗi một và mọi hành vi ngừa thai nhân tạo như là tội nặng. Giáo Hội không thể lầm lẫn trong một vấn đề quan trọng như thế.

Phúc trình thiểu sổ bác bỏ việc coi giáo huấn truyền thống của Giáo Hội Công Giáo chống lại việc ngừa thai là dựa trên luận chứng duy sinh học. Phúc trình cho rằng giáo huấn truyền thống ấy không dựa vào nguyên tắc tổng quát cho rằng con người phải sử dụng mọi cơ năng thể lý của mình phù hợp với xu hướng sinh học của cơ năng ấy. Ngừa thai nhân tạo xấu không phải vì nó đi ngược lại xu hướng sinh học của bất cứ cơ năng nào, mà vì nó đi ngược lại xu hướng của cơ năng sinh sản. Cơ năng này liên hệ tới việc sinh ra sự sống mới, mà sự sống thì không lệ thuộc sự sai khiến của con người. Ta có loại suy này: mạng sống con người một khi đã được thiết dựng trên thực tế (in facto esse) là điều bất khả xâm phạm thế nào, thì mạng sống ấy lúc đang trong diễn trình hình thành (in fieri) cũng bất khả xâm phạm như vậy.

Sự Sống Con Người (Humanae Vitae)

Tháng 8 năm 1968, hơn hai năm sau khi nhận được các phúc trình của ủy ban, Đức GH Phaolô VI công bố thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae). Ngài khởi đầu bằng cách nhận rằng tình thế mới đem tới nhiều vấn đề đòi phải duyệt lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội về việc ngừa thai nhân tạo.

Trong phần trình bày ngắn ngủi về hôn nhân và tình yêu vợ chồng, Đức Phaolô VI tiếp nhận phần lớn tư liệu về hôn nhân và gia đình của Hiến Chế Gaudium et Spes. Ngài cho rằng phần lớn các tư liệu này phù hợp với phúc trình đa số. Theo ngài, hôn nhân là định chế khôn ngoan của Tạo Hóa để thể hiện kế sách yêu thương của Người nơi nhân loại. “Nhờ việc tự hiến cho nhau, một sự tự hiến riêng biệt và có tính độc hữu đối với họ, chồng và vợ cùng hướng về sự hiệp thông con người của họ nhằm hoàn hảo nhau, cộng tác với Thiên Chúa để sinh sản và giáo dục sự sống mới” (33). Tình yêu vợ chồng hoàn toàn có tính nhân bản, vừa có tính giác quan vừa có tính tâm linh cùng một lúc. Không chỉ là một bản năng hay cảm xúc, nó còn là một hành vi của ý chí nhằm sinh tồn và phát triển đến chỗ chồng và vợ trở nên một tâm hồn và một linh hồn duy nhất. Tình yêu này không chỉ giới hạn trong sự hiệp thông giữa chồng và vợ, nó còn được sắp đặt để tiếp tục qua việc dưỡng dục các sự sống mới. Đức Giáo Hoàng nhận định rằng: như Vatican II từng nói, hôn nhân và tình yêu vợ chồng, từ bản chất, vốn được sắp xếp để sinh sản và giáo dục con cái.

Đức Phaolô VI, sau đó, đã bác bỏ việc sử dụng ngừa thai nhân tạo, và nhắc lại giáo huấn truyền thống là giáo huấn vốn dạy rằng mỗi một và mọi hành vi vợ chồng phải sẵn sàng cho việc truyền sinh. Ngài viết tiếp: “Giáo huấn ấy, một giáo huấn đã được huấn quyền đưa ra, được xây dựng trên mối liên kết bất khả phân do Chúa ấn định và con người không thể dùng sáng kiến riêng để phá bỏ giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng: ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản. Quả thực, do cơ cấu thâm sâu của nó, hành vi vợ chồng, trong khi mật thiết kết hợp chồng và vợ nên một với nhau, đã giúp họ có khả năng sinh ra sự sống mới, phù hợp với các định luật được khắc ghi trong chính hữu thể của họ. Nhờ bảo vệ cả hai khía cạnh chủ yếu này, tức khía cạnh kết hợp và khía cạnh sinh sản, hành vi vợ chồng duy trì trọn vẹn được ý hướng của tình yêu hỗ tương chân thực và sự xếp đặt của nó hướng tới ơn gọi cao cả nhất của con người là làm cha mẹ. Chúng tôi tin rằng con người thời nay đặc biệt có khả năng nắm được đặc điểm hết sức hợp lý và đầy nhân bản của nguyên tắc nền tảng này” (34).

Xem ra trình tự của luận điểm này như sau: trước nhất, hôn nhân và tình yêu vợ chồng có cả hai ý nghĩa kết hợp và sinh sản, hai ý nghĩa này liên kết với nhau từ trong yếu tính. Các liên hệ tính dục của vợ chồng cần phải duy trì ý nghĩa trọn vẹn của tình yêu phu phụ, và do đó, cần phải phối hợp cả hai ý nghĩa kết hợp và sinh sản. Ngừa thai nhân tạo ngăn cản việc phối hợp ấy.

Tại sao kết luận của Đức Phaolô VI liên quan đến ngừa thai nhân tạo lại khác với kết luận của phúc trình đa số? Về bản chất của hôn nhân và tình yêu phu phụ, Đức Phaolô VI xem ra nhất trí một cách tổng quát với phúc trình đa số. Sự khác nhau nằm ở chỗ: đây là hai cách đối nghịch nhau trong việc áp dụng luật tổng quát vào các trường hợp đặc thù. Nói cụ thể hơn, Đức Phaolô VI cho rằng ngừa thai nhân tạo là điều tự nó xấu và không bao giờ được phép cả. Điều này không cho ta sử dụng toàn diện tính của hôn nhân làm lý do biện minh cho việc ngừa thai nhân tạo dù là trong các trường hợp đặc thù. Nó cũng loại bỏ việc cho phép ngừa thai nhân tạo, coi nó như sự xấu ít xấu hơn trong một số trường hợp.

Thông điệp không đưa ra lý do cho việc tiếp nhận ý niệm sự xấu nội tại hay cho việc bác bỏ toàn diện tính của hôn nhân hay cho phép ngừa thai như một sự xấu ít xấu hơn. Những điểm này đem lại một phạm vi quan trọng để thần học tìm hiểu thêm, vì chúng là những lý do biểu kiến để Đức Phaolô VI không chấp nhận các kết luận của phúc trình đa số.

Tại sao Đức Phaolô VI đã nghiêng về các lý do đó để chống lại ý kiến của phúc trình đa số? Ngài tuyên bố rằng các kết luận của ủy ban không có tính quyết định, nhưng đòi có suy nghĩ thêm của bản thân ngài “… trên hết vì một số tiêu chuẩn cho giải pháp đã đi trệch ra ngoài giáo huấn luân lý về hôn nhân từng được thẩm quyền giáo huấn của Giáo Hội cương quyết và nhất quán đưa ra” (35). Cho nên, dù không dừng lại lâu ở vấn đề truyền thống và huấn quyền, nhưng xem ra đây là lý do quan trọng, có lẽ đứng hàng đầu, để ngài kết luận về ngừa thai. 

Đức Phaolô VI đồng ý với Hiến Chế Gaudium et Spes rằng cha mẹ phải chịu trách nhiệm về việc quyết định con số con cái “… hoặc cố ý và quảng đại quyết định gầy dựng một gia đình đông đúc hoặc vì những động lực quan trọng và với lòng tôn trọng đối với luật luân lý, họ quyết định tránh né tạm thời, hay trong một thời kỳ vô định, việc có con khác”(36). Khi có những lý do chính đáng để tránh việc có thai, tiết dục định kỳ là điều có thể sử dụng được. Đức Phaolô VI lý luận rằng tiết dục định kỳ rất khác với ngừa thai nhân tạo. Việc thứ nhất chỉ sử dụng hợp pháp một diễn trình tự nhiên, trong khi việc sau ngăn cản diễn trình tự nhiên không được khai triển. 

Tuyên Bố về Đạo Đức Tính Dục

Tháng 12 năm 1975, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin cho ấn hành “Tuyên Bố về Một Số Vấn Đề Liên Quan Tới Đạo Đức Học Tính Dục”. Mục đích chính của Tuyên Bố này là cảnh cáo người ta trước một số sai lầm hiện nay.

Bản Tuyên Bố nhấn mạnh rằng có những tiêu chuẩn luân lý khách quan phù hợp với bản chất con người nhân bản. Các tiêu chuẩn này được luật tự nhiên là luật vốn được khắc ghi trong trái tim con người nhận biết. Mạc khải giúp ta biết thêm các tiêu chuẩn luân lý. Một số qui luật luân lý, trong đó, có các qui luật luân lý về tính dục, là các đòi hỏi bất di bất dịch của bản chất con người, chứ không phải chỉ là sản phẩm của văn hóa sẽ thay đổi khi văn hóa thay đổi. 

Dựa vào đoạn 51 của Gaudium et Spes, Tuyên Bố này cho rằng: các tiêu chuẩn luân lý khách quan điều hướng các hành vi tính dục là các tiêu chuẩn duy trì được trọn vẹn ý hướng của việc hiến thân cho nhau và của việc sinh sản con cái trong ngữ cảnh tình yêu đích thực. Nghĩa là, các qui luật tính dục sẽ có giá trị nếu chúng duy trì được trọn vẹn ý hướng của việc hiến thân cho nhau và của việc sinh sản con cái trong ngữ cảnh tình yêu đích thực. Một lần nữa, tính kết hợp và tính sinh sản được liên kết chặt chẽ với nhau.

Từ nền tảng ấy, Tuyên Bố tiến qua việc đánh giá một số loại tác phong tính dục. Nó lên án việc làm tình trước hôn nhân, vì chỉ trong một hôn nhân bền vững, ý hướng trọn vẹn của việc hiến thân cho nhau và việc sinh sản con cái trong ngữ cảnh tình yêu đích thực mới được duy trì. Làm tình trước hôn nhân không thể có tính sinh sản một cách thích đáng vì nó thiếu đơn vị gia đình bền vững trong đó, con cái được dưỡng dục đầy đủ. Chỉ trong cam kết bền vững của hôn nhân, mới có sự bảo đảm của thành thực và trung thành, chống lại mọi thất thường và tùy hứng. 

Cũng một nền tảng trên được sử dụng để lân án các hoạt động đồng tính. Các hoạt động này sai vì chúng không phục vụ ý hướng trọn vẹn của việc hiến thân cho nhau và của việc sinh sản con cái trong ngữ cảnh tình yêu đích thực.Thủ dâm cũng bị lên án dựa vào nền tảng này. Tuyên Bố coi nó là vô trật tự một cách nội tại và trầm trọng. 

Tuyên Bố cũng cho hay: tâm lý học cho thấy nhiều nhân tố, như sự thiếu chín chắn của tuổi thiếu niên, có thể làm giảm trách nhiệm trong trường hợp phạm tội tính dục. Tuy nhiên, người ta không nên đi quá xa đến chỗ giả thuyết một cách dễ dãi rằng người ta không chịu trách nhiệm nặng nề bao nhiêu khi phạm tội tính dục. Muốn đánh giá trách nhiệm trong các trường hợp đặc thù, ta phải lưu ý tới tác phong thông thường của con người và việc họ thành thực sử dụng các phương tiện cần thiết để thắng vượt các tội về tính dục. Nói cách khác, hình như Tuyên Bố muốn nói rằng nếu người nào thông thường vẫn cố gắng làm điều đúng và nghiêm chỉnh sử dụng việc cầu nguyện cũng như các phương thế khác, thì ta có lý để tin rằng họ không hoàn toàn chịu trách nhiệm về một sai phạm đặc thù nào đó và do đó, không nên coi sai phạm này như một tội trọng.

Tuyên Bố nhận định về ý niệm chọn lựa căn bản (fundamental option). Nó chống lại ý tưởng cho rằng tội trọng chỉ xẩy ra khi ta chính thức từ khước tình yêu của Chúa hoặc hoàn toàn và cố ý đóng cửa lòng mình trước tình yêu tha nhân. Tội trọng có thể xẩy ra vì ta mặc nhiên khước từ Thiên Chúa khi chọn lựa bất cứ điều gì vô trật tự một cách nghiêm trọng về phương diện luân lý. Do đó, tội tính dục vẫn có thể là tội nặng.

Hơn nữa, tội nặng có thể xẩy ra trong một hành vi. Mặt khác, theo nhấn mạnh của Tuyên Bố, “đúng là trong các tội thuộc phạm vi tính dục, xét theo chủng loại và nguyên nhân của chúng, nó dễ dàng xẩy ra đến độ sự tự do ưng thuận không hẳn hoàn toàn được đưa ra”.

Tuyên Bố nhấn mạnh thêm rằng đức trong sạch không hệ ở việc chỉ tránh phạm lỗi mà thôi. Nó còn bao gồm một điều gì đó tích cực hơn. Nó là một nhân đức liên hệ đến toàn bộ nhân cách, cả tác phong bên trong lẫn tác phong bên ngoài. Theo Tuyên Bố, điều quan trọng là đức trong sạch giải phóng con người để họ bước chân theo Chúa Kitô một cách trọn vẹn hơn.

Một số câu hỏi

Duyệt qua giáo huấn chính thức của Giáo Hội Công Giáo về tính dục, hôn nhân và gia đình kể từ năm 1918 tới năm 1975, ta thấy nổi lên một số câu hỏi sau đây:

Thứ nhất, trong hôn nhân, đâu là mối tương quan giữa các khía cạnh kết hợp và sinh sản? Hay một cách tổng quát hơn, tại sao tính dục và hôn nhân, trong yếu tính, lại qui hướng về sinh sản? Vatican II, phúc trình đa số của ủy ban giáo hoàng, và thông điệp Sự Sống Con Người, tất cả đều nhất trí cho rằng tính dục và hôn nhân, trong yếu tính, được qui hướng về việc sinh sản. Tuy nhiên, giữa các nhà thần học Công Giáo ngày nay, sự nhất trí này không còn tự động nữa. Bên ngoài Giáo Hội, người ta ít hỗ trợ giáo huấn chính thức này. 

Câu hỏi thứ hai: cho rằng tính dục và hôn nhân có xu thế phổ quát hướng về việc sinh sản, nhưng tại sao ta phải kết luận rằng ngừa thai nhân tạo là sai trong mọi trường hợp? Tại sao ta phải nhận rằng ngừa thai là điều xấu từ trong nội tại? Tại sao ta không được dựa vào toàn diện tính của hôn nhân, vào các giá trị khác trong hoàn cảnh riêng, để cho phép ngừa thai nhân tạo trong các trường hợp đặc thù, ít nhất coi nó như sự xấu ít xấu hơn? Nói tổng quát hơn, há các đòi hỏi của một tình thế lại không biện minh được các luật trừ đối với qui luật của đạo đức học tính dục hay sao?

Câu hỏi thứ ba: ta phải coi trọng đến đâu giáo huấn truyền thống của Giáo Hội Công Giáo Rôma về nền đạo đức học tính dục và hôn nhân? Một số người cho rằng việc kết án ngừa thai nhân tạo vốn được truyền dạy một cách vô ngộ (37). Một số khác cho rằng thẩm quyền vô ngộ của giáo huấn luân lý chỉ giới hạn trong các nguyên tắc tổng quát và đối với những vấn đề chắc chắn được mạc khải trong Thánh Kinh. Phúc trình đa số xem ra muốn phân biệt hai bình diện. Trên bình diện các giá trị căn bản, giáo huấn của Giáo Hội mãi mãi bất biến. Nhưng trên bình diện khác, có thể chấp nhận thay đổi mà không bất trung với truyền thống. Chủ trương trung dung này có thể chấp nhận được chăng?

Ghi chú

(1) Casti Connubii, đoạn 5. 
(2) Đoạn 17.
(3) Đoạn 11.
(4) Đoạn 11-13.
(5) Đoạn 59.
(6) Đoạn 9.
(7) Đoạn 7.
(8) Đoạn 23.
(9) Đoạn 23.
(10) Đoạn 24.
(11) Đoạn 18.
(12) Đoạn 54.
(13) Đoạn 37.
(14) Đoạn 123.
(15) Vonn Sinn Und Zweck Der Ehe (Breslau: Osterdeutsche Verlag).
(16) Ấn hành tại New York do Nhà Sheed and Ward.
(17) The Meaning of Marriage, các tr. 87-88.
(18) Acta Apostolicae Sedis 36 (1944): 103.
(19) Bản dịch tiếng Anh các phần liên hệ của phán quyết này có thể đọc trong Love and Sexuality, do Odile M. Liebard chủ biên (Wilmington, N.C.: McGrath, 1978) các tr.71-83.
(20) Xem diễn văn của ngài trước Toà Tối Cao Rôma ngày 29 tháng 10, năm 1941, Clergy Review 22 (1942): 84-88; và bài diễn văn trước các cô đỡ , ngày 19 tháng 10, năm 1951, trong Love and Sexuality, tr.117.
(21) Xem diễn văn trước các cô đỡ, Love and Sexuality, tr.117 và diễn văn ngày 19 tháng 5, năm 1956, vừa dẫn, tr.175-176.
(22) Xem diễn văn của ngài ngày 12 tháng 11, năm 1944, trong Love and Sexuality tr.92.
(23) Xem diễn văn trước các cô đỡ, Love and Sexuality, tr. 116.
(24) Love and Sexuality, tr.113.
(25) Diễn văn ngày 29 tháng 9, năm 1949, Love and Sexuality, các tr. 96-100; diễn văn trước các cô đỡ, 19 tháng 10, năm 1951, Love and Sexuality, 117-118.
(26) Diễn văn ngày 19 tháng 5, năm 1956, Love and Sexuality, tr.177.
(27) Love and Sexuality, các tr. 240-241.
(28) Gaudium et Spes, Đoạn 49.
(29) Gaudium et Spes, Đoạn 48. 
(30) Đoạn 48. Xem thêm Đoạn 50.
(31) Vì các hạn từ này rất chủ yếu trong cuộc thảo luận của chúng ta và thường hay được trích dẫn, thiết nghĩ nên trích thẳng từ bản Latinh của văn kiện gốc.Văn kiện này, sau khi nói rằng phán đoán luân lý không nên chỉ dựa vào ý ngay hay việc đánh giá các động lực, đã viết như thế này: “… sed objectivis criteriis, ex personae ejusdemque actuum natura desumptis, determinari debet, quae integrum sensum mutuae donationis ac humanae procreationis in contextu veri amoris observant”. Người ta có thể lý luận rằng khi nhấn mạnh việc vợ chồng phải duy trì ý hướng trọn vẹn của việc hiến thân cho nhau và việc sinh sản trong ngữ cảnh tình yêu đích thực, văn kiện này đã bác bỏ ngừa thai nhân tạo. Tuy nhiên, điều đó không hẳn là cách hiểu phổ quát của các nghị phụ Công Đồng. Được Đức GH Phaolô chỉ thị không được tuyên bố gì về vấn đề ngừa thai nhân tạo, các vị này không dám đề cập đến vấn đề này cả trong nguyên tắc.
(32) Tài liệu thứ nhất, thứ ba và thứ bốn được công bố trên tờ The Tablet, 221 (1967): 449-454; 478-485; 510-513. Tài liệu thứ nhất và tài liệu thứ hai có trong Love and Sexuality, các tr. 296-320.
(33) Sự Sống Con Người, Đoạn 8.
(34) Đoạn 12.
(35) Đoạn 6.
(36) Đoạn 10.
(37) Xem “Contraception and the Infallibility of the Ordinary Magisterium” của J.C. Ford và G. Grisez, Theological Studies 39 (1978): 258-312, nhất là trang 312.

Vũ Văn An

0 nhận xét:

Đăng nhận xét